Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai tháng 11 và 11 tháng năm 2024
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Tháng Mười một, tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định. Hiện nay các địa phương đang tập trung thu hoạch cây trồng vụ mùa; đẩy nhanh tiến độ trồng rừng và tập trung làm đất sản xuất vụ đông kịp thời vụ; công tác phòng chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm, thuỷ sản được thực hiện tốt, không để dịch bệnh lớn xảy ra; công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng tiếp tục được tăng cường.
1.1. Sản xuất nông nghiệp
a) Trồng trọt
- Cây hàng năm
+ Cây lúa: Diện tích gieo cấy lúa mùa ước đạt 24.291,96 ha, tăng 0,99% so với cùng kỳ năm trước. Năng suất ước đạt 48,52 tạ/ha, giảm 7,65%, giảm chủ yếu là do ảnh hưởng của cơn bão số 3 làm thiệt hại 2.352,71 ha (diện tích thiệt hại >70% là 1.488,83 ha, từ 50 - 70% là 500,88 ha, từ 30 - 50% là 363 ha); sản lượng sơ bộ đạt 117.862 tấn, giảm 6,73% so với cùng kỳ. Tổng diện tích gieo trồng cả năm ước đạt 34.141,18 ha, tăng 0,48%; sản lượng ước ước đạt 178.220,64 tấn, giảm 4,13% so với năm trước.
+ Cây ngô: Diện tích gieo trồng ngô vụ mùa đạt 21.328 ha, giảm 7,98% so với cùng kỳ năm trước; năng suất ước đạt 39,52 tạ/ha, tăng 0,14 tạ/ha so với cùng kỳ; sản lượng ước đạt 84.287,83 tấn, bằng 92,34% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích gieo trồng cả năm đạt 32.083,4 ha, giảm 5,83% so với năm 2023; sản lượng ngô cả năm ước đạt 133.828,95 tấn, giảm 1,34%, sản lượng giảm chủ yếu do diện tích gieo trồng giảm và ảnh hưởng của bão, lũ.
+ Cây rau các loại: Các địa phương đang tập trung làm đất, gieo trồng và chăm sóc rau vụ mùa các loại. Diện gieo trồng trong tháng đạt 624 ha, lũy kế 11 tháng đạt 11.845,46 ha, giảm 2,53% so với so với cùng kỳ năm trước, do ảnh hưởng của bão số 3 làm thiệt hại 269 ha và một số diện tích kém hiệu quả người dân chuyển trồng cây khác hiệu quả kinh tế hơn. Hiện tại, các loại rau đang được chăm sóc và phát triển tốt.
- Cây lâu năm
+ Cây chuối: Trong tháng đã trồng mới được 208 ha, lũy kế đạt 584 ha. Diện tích hiện có ước tính đạt 2.202 ha, tăng 13,20% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thu hoạch trong tháng ước đạt 3.786 tấn, tăng 10,60% so cùng kỳ; lũy kế đạt 41.224 tấn, giảm 25,96%. Nguyên nhân sản lượng chuối giảm mạnh là do cuối năm 2023 bệnh héo rũ Panama phát triển mạnh làm cây bị chết, hiện nay các địa phương đang dần phục hồi diện tích bị thiệt hại.
+ Cây Dứa: Trong tháng, trồng mới được 56 ha, lũy kế trồng mới đạt 150 ha. Diện tích hiện có đạt 2.196.5 ha, giảm 1,13% so với cùng kỳ. Hiện nay, cơ bản các địa phương đã thu hoạch xong, sản lượng thu hoạch lũy kế đạt 45.157 tấn, tăng 2,3% so với cùng kỳ. Tình hình tiêu thụ ổn định.
- Cây chè: Các địa phương đang tiếp tục chăm sóc, trồng mới theo kế hoạch. Diện tích trồng mới trong tháng ước đạt 157 ha, lũy kế đạt 278 ha; diện tích chè búp hiện có là 7.914 ha, giảm 0,20% so với cùng kỳ. Sản lượng thu hoạch 11 tháng ước đạt 46.403 tấn, tăng 5,68%. Giá thu mua chè búp tươi ổn định, dao động từ 8.000 - 10.000 đồng/kg; đối với chè chất lượng cao (Kim Tuyên) giá thu mua giao động từ 17.000 - 18.000 đồng/kg.
b) Chăn nuôi
Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh duy trì và phát triển tốt; công tác kiểm dịch vận chuyển và kiểm soát giết mổ trên địa bàn được quan tâm thực hiện thường xuyên. Dự ước đàn trâu hiện có đến tháng 11/2024 là 100,12 nghìn con, so với cùng kỳ năm trước giảm 2,29%; đàn bò hiện có 23,25 nghìn con, tăng 0,17%; đàn lợn 393,28 nghìn con, tăng 0,51%; đàn gia cầm 6.024 nghìn con, tăng 2,68%; trong đó, đàn gà là 5.123 nghìn con, tăng 5,72% so với cùng kỳ năm trước.
1.2. Lâm nghiệp
- Công tác phát triển rừng: Diện tích trồng rừng mới tập trung trong tháng ước đạt 36 ha; lũy kế từ đầu năm đến hết tháng 11 ước đạt 3.012 ha, giảm 29,97% so với cùng kỳ năm 2023 và tăng 77,18% so với kế hoạch năm.
- Khai thác lâm sản: Sản lượng gỗ khai thác trong tháng ước đạt 12.155 m3, giảm 11,02% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế ước đạt 118.477 m3, giảm 1,15%. Sản lượng củi khai thác trong tháng ước đạt 38.810 ste, giảm 4,53% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế ước đạt 315.843 ste, tăng 0,11% so với cùng kỳ.
- Quản lý, bảo vệ rừng: Các địa phương tiếp tục tăng cường công tác tuần tra canh phòng cháy rừng, chỉ đạo lực lượng kiểm lâm địa bàn tuyên truyền, vận động Nhân dân bảo vệ và phát triển rừng; đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát việc khai thác, kinh doanh, vận chuyển, chế biến lâm sản tại các địa bàn trọng điểm kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Trong tháng, phát hiện 06 vụ vi phạm pháp luật về lâm nghiệp (phá rừng 02 vụ, vận chuyển lâm sản trái phép 03 vụ, khai thác rừng trái phép 1 vụ), đã xử lý theo quy định.
1.3. Thuỷ sản
Sản xuất thủy sản trên địa bàn tỉnh ổn định, các địa phương trong tỉnh đang tập trung thu hoạch và chăm sóc đàn cá, đồng thời quản lý, chăm sóc đàn cá bố mẹ để tiến hành tham gia sinh sản và hướng dẫn Nhân dân tu sửa, nạo vét ao, khử trùng đảm bảo các yêu cầu vệ sinh cho việc nuôi thả mới. Diện tích thủy sản nuôi trồng ước đạt 2.677,98 ha; sản lượng thu hoạch trong tháng ước đạt 1.350 tấn, lũy kế ước đạt 9.764 tấn, giảm 0,08% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thu hoạch giảm do ảnh hưởng của bão, lũ, ước thiệt hại 339,51 ha.
2. Sản xuất công nghiệp
Sau thời gian tập trung khắc phục hậu quả của cơn bão số 3 (Bão Yagi), các doanh nghiệp đã chủ động khôi phục sản xuất kinh doanh, tuy tình hình sản xuất công nghiệp đã có chuyển biến tích cực, nhưng chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 11/2024 chỉ tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước (+0,20%). Nguyên nhân do các dự án lớn thiếu nguyên liệu đầu vào (quặng apatit) có đơn vị chỉ duy trì sản xuất cầm chừng; đối với ngành sản xuất và phân phối điện do chịu ảnh hưởng của mưa bão, đến thời điểm hiện tại còn một số nhà máy thuỷ điện đang tạm dừng để khắc phục,... đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
2.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp
Tháng Mười một, dự ước chỉ số IIP trên địa bàn tỉnh tăng 0,20% so với cùng kỳ năm trước. Tăng chủ yếu ở ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí với mức 7%, trong kỳ tuy một số nhà máy bị ảnh hưởng của mưa bão, nhưng một số nhà máy có công suất lớn vẫn duy trì phát điện ổn định; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,13%; tuy nhiên, ngành khai khoáng giảm 3,48%, chủ yếu giảm ở ngành khai khoáng khác (quặng Apatit) giảm 21,35%, do các doanh nghiệp gặp khó khăn trong công tác đền bù giải phóng mặt bằng, thiếu bãi đổ thải,…; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,67%, chủ yếu giảm ở một số ngành trọng điểm chiếm tỷ trọng lớn (sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 6,53%, sản xuất kim loại giảm 8,38%, sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 23,43%, chủ yếu do thiếu nguyên liệu đầu vào).
Tính chung 11 tháng năm 2024, chỉ số IIP trên địa bàn tỉnh tăng 9,23% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp khai khoáng tăng 8,46%, đóng góp 2,91 điểm phần trăm vào mức tăng chung; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,76%, đóng góp 2,14 điểm phần trăm; sản xuất và phân phối điện tăng 15,10%, đóng góp 4,14 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,02%, đóng góp 0,04 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
Trong các ngành công nghiệp của tỉnh, đa số các ngành có chỉ số sản xuất 11 tháng năm 2024 tăng so với cùng kỳ năm 2023 như: Ngành khai khoáng thác kim loại tăng 13,60% (khai thác quặng sắt tăng 17,93%, quặng đồng tăng 13,37%, do các đơn vị trong lĩnh vực này duy trì sản xuất ổn định theo kế hoạch, có tăng đơn hàng); ngành khai khoáng khác tăng 1,52%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 55,03%; sản xuất đồ uống tăng 16,2%; dệt tăng 88,51%, do tăng đơn hàng và đảm bảo nguồn nguyên liệu; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 61,1%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 5,01%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 75,23%, do sản xuất theo mùa vụ và có đủ nguyên liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 18,3%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 4,07%; sản xuất và phân phối điện tăng 15,10%; ngành khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 2,76%. Tuy nhiên, trong kỳ có 03 ngành có chỉ số giảm so với cùng kỳ gồm: Ngành sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy giảm 32,92%, do thiếu nguyên liệu và đơn đặt hàng; ngành in, sao chép bản ghi các loại giảm 67,95%, do giảm đơn hàng; ngành sản xuất kim loại giảm 7,95%, do nguyên liệu đầu vào giảm tỷ trọng hàm lượng trong quặng (quặng đồng) và dừng luân phiên để sửa chữa, duy tu bảo dưỡng máy móc.
2.2. Sản phẩm công nghiệp chủ yếu
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 11 tháng năm 2024 tăng so với cùng kỳ năm 2023 như: Quặng sắt tăng 17,93%; quặng đồng tăng 13,37%; Quặng Apatit tăng 1,65%; tinh bột sắn tăng 110,99%; chè (trà) nguyên chất tăng 21,25%; bia hơi tăng 37,27%; nước tinh khiết tăng 7,18%; dịch vụ sản xuất các hàng dệt khác chưa được phân vào đâu tăng 88,51%; ván ép từ gỗ tăng 62,17%; sản phẩm in khác tăng 10,83%; phốt pho vàng tăng 2,44%; axit sunfuric tăng 11,65%; DCP tăng 7,17%; phân bón DAP tăng 31,16%; phân lân nung chảy tăng 109,2%; dược phẩm khác (cao atiso) tăng 75,23%; gạch xây dựng tăng 7,8%; bê tông tươi tăng 28,27%; thùng, bể chứa và các vật bằng sắt thép có dung tích >300 lít tăng 32,88%; điện sản xuất tăng 19,64%; nước uống được tăng 2,76%. Bên cạnh đó, một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ như: Quặng Felspar giảm 9,14%; dứa đóng hộp giảm 70,34%; gỗ xẻ giảm 100%; giấy đế giảm 32,92%; dịch vụ phụ thuộc liên quan đến in giảm 69,34%; axit photphoric giảm 1,2%; Supe Photphat (P2O5) giảm 22,01%; phân bón NPK giảm 15,36%; vàng chưa gia công giảm 13,93%; đồng ka tốt giảm 6,66%; cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép giảm 42,66%; điện thương phẩm giảm 3,02%.
2.3. Chỉ số sử dụng lao động
Chỉ số sử dụng lao động trong các doanh nghiệp (DN) công nghiệp tháng 11/2024 tăng 0,01% so với tháng trước. Trong đó, chỉ số sử dụng lao động trong các DN ngoài nhà nước tăng 0,04%; DN nhà nước giảm 0,02%; DN có vốn đầu tư nước ngoài ổn định. So với cùng kỳ năm trước, chỉ số sử dụng lao động tháng 11 năm nay tăng 0,58%. Chia theo loại hình: DN ngoài nhà nước tăng 3,44%; DN nhà nước giảm 1,56%; lao động khu vực DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 0,06%. Chia theo ngành công nghiệp: Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,47%; công nghiệp khai khoáng giảm 0,16%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện giảm 5,33%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,06%.
Tính chung 11 tháng năm 2024, chỉ số sử dụng lao động ở các DN sản xuất công nghiệp tăng 2,36% so với cùng kỳ. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 2,15%; ngành chế biến, chế tạo tăng 5,66%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,11%, riêng lao động ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện giảm 5,62%.
3. Vốn đầu tư phát triển
Tổng vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh Lào Cai tháng 11/2024 ước đạt 647,22 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 1,13%, so với cùng kỳ năm trước tăng 3,65%. Lũy kế 11 tháng ước đạt 4.971,17 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 97,23% và đạt 76,44% kế hoạch năm. Trong đó, vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh đạt 2.734,14 tỷ đồng, giảm 6,51% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 55% tổng nguồn vốn; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 2.237,03 tỷ đồng, tăng 2,23% và chiếm 45% tổng nguồn vốn.
Vốn đầu tư thực hiện tháng Mười một tăng so với cùng kỳ chủ yếu là do kế hoạch vốn giao năm 2024 được bổ sung từ nguồn vốn cân đối ngân sách tỉnh tăng 10,93%; mặt khác, được sự quan tâm, chỉ đạo và tạo môi trường đầu tư của tỉnh, ngay từ đầu năm các chủ dự án đã đẩy nhanh tiến độ thi công công trình chuyển tiếp; đẩy nhanh công tác đấu thầu và khởi công các dự án đã được phê duyệt. Do vậy, tiến độ triển khai thực hiện các công trình, dự án trọng điểm có sức lan tỏa, tạo ra đột phá lớn và mang tính kết nối được tỉnh tích cực đôn đốc, phối hợp với các bộ, ngành để sớm triển khai như: Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình trọng điểm của tỉnh gồm: Dự án hạ tầng kỹ thuật tiểu khu đô thị số 15; dự án cải tạo, nâng cấp tỉnh lộ 151 B đoạn Nậm Tha - Phong Dụ Hạ (Km 47- km 50 + 890); dự án Cải tạo, nâng cấp tỉnh lộ 161 cũ đoạn km 7 + 350 (Tỉnh lộ 157) - Km 5+ 031 (đường Phố Mới - Bảo Hà), huyện Bảo Thắng; dự án Cải tạo, nâng cấp Tỉnh lộ 151 B đoạn Chiềng Ken - Nậm Tha (Km 23 - Km 47); cải tạo, nâng cấp Tỉnh lộ 152 B đoạn Thanh Phú - Nậm Cang (Km 0 - Km 13); cải tạo, nâng cấp Tỉnh lộ 153 đoạn Bản Liền - Nghĩa Đô (Km 48 - Km 72); dự án sử dụng vốn khai thác khoáng sản và đảm bảo hạ tầng giao thông: Dự án Nâng cấp tỉnh lộ 156 (Kim Thành - Ngòi Phát) đoạn từ cầu Quang Kim đến nút giao với đường BV32 và BV28 và san gạt mặt bằng 2 bên đường với chiều sâu 50 m; 02 Dự án hệ thống xử lý nước thải tại khu công nghiệp Tằng Loỏng - Giai đoạn 2; Kè sông Hồng, di dân tái định cư khu vực Cánh Chín, xã Vạn Hòa, thành phố Lào Cai (đoạn từ cầu Phố Mới đến xã Vạn Hòa); dự án hạ tầng giao thông nội thị ưu tiên cấp bách để vận chuyển hàng hóa qua cửa khẩu - Đường D2 kéo dài xã Vạn Hòa, thành phố Lào Cai; dự án Cải tạo, nâng cấp nhà máy xử lý nước thải Đông Phố Mới; dự án san gạt mặt bằng hai bên tuyến đường D1 đoạn từ Km 0 + 750 (nút giao đường B1) - Km 9 + 353 (nút giao đại lộ Trần Hưng Đạo); dự án Hạ tầng kỹ thuật phía sau trụ sở khối II,… Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đã được cấp quyết định chủ trương đầu tư như: Nhà ở xã hội tại khu dân cư giáp đường B6 kéo dài, với tổng mức đầu tư 2.085 tỷ đồng; nhà ở xã hội tại xã Vạn Hoà, với tổng mức đầu tư 562 tỷ đồng; nhà máy sản xuất sợi dệt và tinh bột chuối Musa Golden, với tổng mức đầu tư 386 tỷ đồng; khu nhà ở thương mại tại lõi đất sau khu dân cư các đường Hoàng Liên, Lý Công Uẩn, Nguyễn Du, với tổng mức đầu tư 51,4 tỷ đồng; khai thác, chế biến đá làm vật liệu xây dựng tại mỏ đá Võ Lao, với tổng mức đầu tư 22,3 tỷ đồng; đầu tư chăn nuôi lợn công nghệ cao, tổng mức đầu tư 190 tỷ đồng; chăn nuôi lợn và sản xuất giống lợn, với tổng mức đầu tư 14,9 tỷ đồng;...
4. Thương mại, dịch vụ và giá cả
Trong tháng, hoạt động thương mại và dịch vụ trên địa bàn tỉnh đã bình thường trở lại sau ảnh hưởng của hoàn lưu bão, tỉnh đã triển khai kịp thời những chính sách phục hồi và thực hiện nhiều biện pháp kích cầu, tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ; khôi phục hạ tầng giao thông,... nhiều Lễ hội được tổ chức như: Festival “Thổ cẩm Lào Cai - Sắc màu văn hóa”; giải đua xe đạp quốc tế “Một đường đua - hai quốc gia”; ngày hội văn hóa - thể thao các dân tộc huyện Bát Xát; Hội chợ Du lịch Quốc tế Lào Cai,... Hàng hóa thiết yếu tiêu dùng được đảm bảo, đáp ứng tốt nhu cầu mua sắm của Nhân dân trong tỉnh cũng như du khách đến với tỉnh Lào Cai. Dự ước tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt mức tăng trưởng khá.
4.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 11/2024 ước đạt 2.757,88 tỷ đồng, tăng 12,43% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 1.892,87 tỷ đồng, tăng 11,11%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 471,76 tỷ đồng, tăng 14,28%; doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 25,86 tỷ đồng, tăng 8,25%; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 367,40 tỷ đồng, tăng 17,54% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 11 tháng năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 28.698,45 tỷ đồng, tăng 16,12% so với cùng kỳ năm trước. Xét theo ngành hoạt động như sau:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 19.555,46 tỷ đồng, chiếm 68,15% tổng mức và tăng 14,40% so với cùng kỳ. Hầu hết các nhóm ngành hàng đều tăng so với cùng kỳ năm trước, cụ thể: Lương thực, thực phẩm tăng 21,29%; hàng may mặc tăng 21,46%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 9,98%; vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 34,53%; ô tô các loại tăng 20,42%; xăng dầu các loại tăng 15,27%; nhiên liệu khác tăng 26,14%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 21,88%; hàng hóa khác tăng 24,10%; riêng nhóm hàng gỗ và vật liệu xây dựng giảm 10,58%; phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng) giảm 12,89%;
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 5.192,30 tỷ đồng, chiếm 18,09% tổng mức và tăng 22,34% so với cùng kỳ năm trước;
- Doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 279,68 tỷ đồng, chiếm 0,97% tổng mức và tăng 7,58% so với cùng kỳ năm trước;
- Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 3.671 tỷ đồng, chiếm 12,79% tổng mức và tăng 17,86% so với cùng kỳ năm trước.
4.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Trong tháng, hoạt động xuất, nhập khẩu tương đối ổn định. Tại cửa khẩu quốc tế đường bộ số II Kim Thành, hoạt động thông quan hàng hóa vẫn duy trì ổn định và không xảy ra hiện tượng ùn tắc tại khu vực cửa khẩu, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vẫn là sầu riêng, gỗ ván bóc, thanh long, mít, chuối; các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là hoa, cây cảnh, rau củ quả tươi, than cốc, phân bón, máy móc thiết bị, bánh kẹo, năng lượng điện,… Lượng phương tiện thông quan tại cửa khẩu trung bình khoảng 450 xe/ngày, trong đó: xe xuất khẩu 68 xe/ngày, nhập khẩu 382 xe/ngày. Tại cửa khẩu quốc tế ga đường sắt, hoạt động thông quan được duy trì với 02 - 04 chuyến tàu xuất, nhập cảnh/ngày, hàng hóa thông quan tại cửa khẩu trong tháng chủ yếu là lưu huỳnh.
Tổng giá trị xuất nhập khẩu, mua bán, trao đổi hàng hoá qua các cửa khẩu trong tháng 11/2024 ước đạt 263,07 triệu USD, tăng 20,62% so với tháng trước và tăng 88,14% so với tháng cùng kỳ năm trước; lũy kế 11 tháng ước đạt 3.229,49 triệu USD, tăng 68,05% so với cùng kỳ và đạt 71,77% kế hoạch năm, trong đó:
- Giá trị xuất khẩu ước đạt 117,15 triệu USD, tăng 41,85% so với tháng trước và tăng 162,01% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế ước đạt 1.794,96 triệu USD, tăng 123,32% so với cùng kỳ năm trước và đạt 94,47% kế hoạch năm;
- Giá trị nhập khẩu ước đạt 83 triệu USD, tăng 5,06% so với tháng trước và tăng 132,10% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế ước đạt 745,23 triệu USD, tăng 45,31% so với cùng kỳ năm trước và đạt 62,10% kế hoạch năm;
- Các loại hình khác (TNTX, KNQ, chuyển CK, Quá cảnh, Doanh nghiệp trong tỉnh thực hiện XNK tại các cửa khẩu khác) ước đạt 62,92 triệu USD, tăng 11,34% so với tháng trước và tăng 6,01% so với cùng kỳ năm 2023; lũy kế ước đạt 689,30 triệu USD, tăng 13,91% so với cùng kỳ và đạt 49,24% kế hoạch năm.
4.3. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
a) Chỉ số giá tiêu dùng
Chi phí sản xuất và nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng tiêu dùng trong tháng tăng là các nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2024 tăng 0,01% so với tháng trước. Bên cạnh đó, giá xăng dầu, điện sinh hoạt giảm là các yếu tố làm hạn chế tốc độ tăng chỉ số của tháng.
CPI tháng Mười một tăng 0,01% so với tháng trước. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 01 nhóm giữ giá ổn định, 06 nhóm tăng giá và 04 nhóm giảm giá so với tháng trước. Trong đó:
- Nhóm có chỉ số ổn định: Nhóm bưu chính viễn thông (CPI=100);
- Các nhóm có chỉ số tăng: Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,99%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,03%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,52%; nhóm giáo dục tăng 0,19%; nhóm văn hoá, giải trí và du lịch tăng 0,33%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,68%;
- Các nhóm có chỉ số giảm: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,43%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,62%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế giảm 0,03%; nhóm giao thông giảm 0,01%.
Các nguyên nhân chính làm CPI tháng 11 tăng so với tháng trước là do: (1) Chỉ số giá nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,99%, chủ yếu do tăng giá từ nhà sản xuất, cụ thể: Nước khoáng và nước có ga tăng 0,42%; rượu các loại tăng 3,15%; bia các loại tăng 2,63%; thuốc hút (thuốc lá) tăng 1,17%; (2) nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,03%, do thời tiết chuyển mùa, nhu cầu người dân đối với các mặt hàng và dịch vụ may mặc, giày dép thu đông tăng; (3) nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,52%, do các cơ sở thay đổi giá theo chương trình kinh doanh và theo nhu cầu tiêu thụ; (4) nhóm giáo dục tăng 0,19%, do các sản phẩm văn phòng phẩm (giấy, vở) tăng giá (nhà sản xuất tăng giá khi chi phí sản xuất tăng); (5) nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,33%, góp phần làm tăng CPI chung khoảng 0,02 điểm phần trăm, do các gói du lịch hết chương trình khuyến mại, trở về giá ban đầu và một số mặt hàng đồ chơi giải trí (cờ, bài) tăng do giá sản xuất; (6) nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,68%, trong đó: Giá hàng hóa và dịch vụ cá nhân tăng 1,43% chủ yếu do giá đồ trang sức tăng (theo ảnh hưởng của giá vàng), giá hàng chăm sóc cơ thể tăng do giá sản xuất tăng, giá dịch vụ phục vụ cá nhân (cắt tóc, gội đầu) tăng 2,32% và dịch vụ hiếu hỉ tăng 0,24% do cơ sở tư nhân tăng giá theo thị trường.
Các yếu tố chính làm CPI tháng 11 giảm so với tháng trước là do: (1) Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,43%, tác động làm CPI chung giảm 0,23 điểm phần trăm; (2) nhóm nhà ở, điện nước và vật liệu xây dựng giảm 0,62%; (3) nhóm thuốc và dịch vụ y tế giảm 0,03%, chủ yếu là giá một số loại thuốc (hoạt chất Fluconazol chống nấm) giảm do giá nhập giảm; (4) nhóm giao thông giảm 0,01%, nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá nhiên liệu trong tháng của Bộ Công Thương theo thị trường trong nước và quốc tế. (trong tháng giá dầu diezel tăng 2,87%, giá xăng giảm 0,28%).
b) Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Chỉ số giá vàng tháng 11/2024 tăng 4,11% so với tháng trước; tăng 39,93% so với tháng 12/2023 và tăng 45,25% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 11 tháng năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 30,80%.
Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 11/2024 tăng 2,05% so với tháng trước; tăng 4,86% so với tháng 12/2023 và tăng 4,20% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 11 tháng năm 2024 chỉ số đô la tăng 5,60%.
4.4. Hoạt động vận tải
Hoạt động vận tải duy trì và phát triển khá; các đơn vị kinh doanh vận tải hoạt động tương đối ổn định, đặc biệt là hoạt động cáp treo Fansipan có nhiều khởi sắc, đóng góp khá cao cho tăng tưởng của hoạt động kinh doanh vận tải.
a) Vận tải hành khách
Tháng Mười một, vận tải hành khách ước đạt 953 nghìn hành khách, tăng 5,18% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển ước đạt 49.531 nghìn HK.Km, tăng 2,06%. Tính chung 11 tháng năm 2024, vận tải hành khách đạt 11.448 nghìn người, tăng 2,91%; luân chuyển đạt 611.861 nghìn HK.Km, tăng 1,29% so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động vận tải hành khách kết quả đạt chưa cao, chủ yếu là do, trong kỳ vận tải hành khách bằng cáp treo tạm ngừng hoạt động 01 tháng để bảo trì, cùng với đó do ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 3 và khắc phục hậu quả sau bão, nên lượng khách tham quan, du lịch giảm.
b) Vận tải hàng hóa
Tháng Mười một, vận tải hàng hóa ước đạt 1.507 nghìn tấn, tăng 0,84 so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển ước đạt 54.641 nghìn tấn.km, tăng 0,41%. Tính chung 11 tháng năm 2024, vận tải hàng hóa đạt 15.792 nghìn tấn, tăng 11,38%; luân chuyển đạt 567.576 nghìn tấn.km, tăng 6,60% so với cùng kỳ năm trước.
c) Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ
Tổng doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ trên địa bàn tỉnh tháng Mười một ước đạt 511,62 tỷ đồng, tăng 8,75% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 176,82 tỷ đồng, tăng 16,75%; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 236,22 tỷ đồng, tăng 2,22%; dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 98,58 tỷ đồng, tăng 12,13%.
Tính chung 11 tháng năm 2024, tổng doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ trên địa bàn tỉnh ước đạt trên 5.762,82 tỷ đồng, tăng 8,72% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu vận tải hành khách đạt 2.311,80 tỷ đồng, tăng 8,83%; doanh thu vận tải hàng hóa đạt 2.468,63 tỷ đồng, tăng 12,8%; doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 982,40 tỷ đồng, giảm 0,55% so với cùng kỳ năm 2023.
6. Một số vấn đề xã hội
6.1. Giải quyết việc làm, an sinh xã hội
- Trong tháng, tạo việc làm tăng thêm cho 2.779 lao động; lũy kế giải quyết việc làm cho 16.046 lao động, tăng 10,7% so với kế hoạch năm. Công tác Giáo dục nghề nghiệp tiếp tục được quan tâm; trong tháng, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã tuyển sinh, đào tạo được 954 người, lũy kế tuyển sinh, đào tạo được 12.262 người, đạt 102,2% kế hoạch năm.
- Thường xuyên thông tin, tuyên truyền, tư vấn chính sách lao động, việc làm, học nghề, xuất khẩu lao động, BHTN, BHXH: Trong tháng, đã tổ chức 18 phiên giao dịch việc làm; lũy kế tổ chức 66 phiên giao dịch việc làm; tuyên truyền chính sách lao động, việc làm cho 19.668 lượt người; tiếp nhận đăng ký tuyển dụng của 292 đơn vị với nhu cầu 12.586 lao động; kết nối việc làm thành công cho 748 người, đạt 98% kế hoạch năm.
- Tiếp tục tuyên truyền, tuyển chọn lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Trong 11 tháng năm 2024, đã có 213 lao động xuất cảnh, tăng 23 người so với cùng kỳ năm 2023, đạt 115,5% kế hoạch năm.
- Tăng cường quản lý thực hiện chế độ BHXH; Tính đến ngày 15/11/2024, toàn tỉnh có 62.212 người tham gia BHXH bắt buộc, tăng 0,92% so với cùng kỳ năm 2023; 10.494 người tham gia BHXH tự nguyện, tăng 24,75%; 54.106 người tham gia BHTN, tăng 1,09%. Tổng số thu BHXH, BHYT, BHTN trong tháng 11 là 191,58 tỷ đồng, lũy kế 2.018,17 triệu đồng, tăng 21,6%; tổng số tiền chậm đóng BHXH, BHYT, BH thất nghiệp toàn tỉnh là 207,21 tỷ đồng, tăng 27,5%. Giải quyết chế độ BHTN cho 2.141 lượt lao động; Giải quyết chế độ BHTNLĐ-BNN cho 04 người; Hỗ trợ tư vấn việc làm cho 100% lao động đến tư vấn và giải quyết đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp. Việc chi trả, giải quyết các chế độ BHXH đảm bảo đúng, đủ, kịp thời.
6.2. Lĩnh vực y tế
a) Công tác phòng, chống dịch bệnh
- Tiếp tục giám sát, theo dõi tình hình dịch bệnh; quản lý chặt chẽ các dịch bệnh nguy hiểm, dịch bệnh lưu hành địa phương; phát hiện sớm, khống chế dịch bệnh kịp thời, không để lan rộng. Trong tháng 11 đã xuất hiện các ổ dịch: Cúm A tại điểm trường trung tâm Hòa Lạc Trường Tiểu học Thống Nhất, TP.Lào Cai với 84 ca; Thủy đậu tại trường Mầm Non Hoa Hồng, TT.Phố Ràng, huyện Bảo Yên 14 ca; Trường Mầm non Hợp Thành, TP.Lào Cai 06 ca. Các ổ dịch đều được theo dõi, giám sát, cách ly điều trị ổn định.
- Thực hiện tốt công tác tiêm chủng mở rộng: Tổng số trẻ được tiêm chủng đầy đủ là 1.105 trẻ; lũy kế 10.785 trẻ, đạt 90,9% kế hoạch; tiêm phòng uốn ván cho phụ nữ có thai 1.062 người; lũy kế 9.393 người, đạt 82,1% kế hoạch; tiêm phòng viêm gan B 24h sau sinh 1.102 trẻ; lũy kế 9.330 trẻ, đạt 96,6%; công tác tiêm chủng an toàn, không có tai biến.
- Tăng cường các hoạt động tuyên truyền phòng, chống HIV/AIDS với nhiều hình thức trên các phương tiện thông tin đại chúng và trực tiếp tại cộng đồng; tổ chức thường xuyên các hoạt động can thiệp giảm tác hại dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS. Số người nhiễm HIV/AIDS quản lý là 1.095 người, số bệnh nhân nhận thuốc là 1.069 người, số phụ nữ mang thai được tư vấn, xét nghiệm và trở lại nhận kết quả là 1.216 người. Điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại 07 cơ sở; số bệnh nhân đang điều trị là 1.307 người, đạt 95,4% kế hoạch. Số người nhiễm HIV mới 06 người; số người nhiễm HIV còn sống 1.707 người, luỹ kế bệnh nhân AIDS 2.600 bệnh nhân; bệnh nhân AIDS tử vong trong tháng 03 bệnh nhân, lũy kế 1.721 bệnh nhân.
b) Công tác khám chữa bệnh
Duy trì thường xuyên, đảm bảo chế độ thường trực cấp cứu, sẵn sàng tiếp nhận, điều trị bệnh nhân; thực hiện nghiêm các quy định về tinh thần, thái độ, trách nhiệm phục vụ Nhân dân trong các cơ sở khám, chữa bệnh; nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho Nhân dân. Tăng cường các hoạt động hợp tác y tế theo chương trình ký kết giữa UBND tỉnh với các bệnh viện tuyến Trung ương; giữa các bệnh viện trong tỉnh với các bệnh viện tuyến trên. Các nội dung hợp tác trọng tâm vào đào tạo, hỗ trợ và chuyển giao kỹ thuật; khám chữa bệnh từ xa…; mời chuyên gia bệnh viện tuyến trên về trực tiếp khám chữa bệnh cho nhân dân.
Tổng số lần khám bệnh, khám kiểm tra sức khoẻ trong tháng 11 là 237.824 lượt, lũy kế 11 tháng là 1.931.212 lượt. Tổng số lần khám chữa bệnh BHYT là 61.804 lượt, lũy kế 11 tháng 737.366 lượt. Công suất sử dụng giường bệnh toàn tỉnh tháng 11 đạt 100,53%, (Tại bệnh viện tuyến tỉnh, huyện đạt 99,71%; tại các PKĐKKV đạt 109,33%); lũy kế 11 tháng công suất sử dụng giường bệnh toàn tỉnh đạt 102,38%, (tại bệnh viên tuyến tỉnh, huyện đạt 102,2%, tại các PKĐKKV đạt 104,4%.
c) Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm
Trong tháng, các ngành chức năng tiến hành kiểm tra 428 cơ sở về công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, đã phát hiện 03 cơ sở vi phạm, đã yêu cầu khắc phục; Lấy và gửi kiểm nghiệm 60 mẫu thực phẩm và nước uống dùng liền, đã có kết quả 20 mẫu, 20/20 mẫu đạt, lũy kế 270 mẫu, đạt 110,6% kế hoạch năm. Test nhanh 778 mẫu, 100% mẫu đạt. Tiếp nhận 193 hồ sơ tự công bố sản phẩm thực phẩm, lũy kế 2.309 hồ sơ, trong đó chủ yếu sản phẩm do ngành Công Thương quản lý; cấp 87 giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm, lũy kế 1.506 cơ sở thuộc diện cấp giấy đã được cấp, đạt 106,6% chỉ tiêu giao; kiểm nghiệm Labo 165 mẫu thực phẩm, test nhanh 270 mẫu, 100% mẫu đạt.
6.3. Lĩnh vực giáo dục
Công tác giáo dục đào tạo trên địa bàn tỉnh tiếp tục được quan tâm. Tỉnh đã ban hành kế hoạch triển khai công tác giáo dục an toàn giao thông và Chương trình “Tôi yêu Việt Nam” trong cấp học giáo dục mầm non tỉnh Lào Cai năm học 2024 - 2025; kế hoạch xét chuyển chức danh nghề nghiệp viên chức năm 2024; kế hoạch kiểm tra công nhận công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ, thí điểm PCGDMNT4T tỉnh Lào Cai năm 2024; kế hoạch xây dựng ngân hàng đề thi đề xuất năm 2024,… Phát động phong trào thi đua “Lào Cai chung tay khắc phục hậu quả cơn bão số 3” và khen thưởng cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả cơn bão số 3; Phong trào thi đua đặc biệt lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030 và Đại hội Thi đua yêu nước tỉnh Lào Cai lần thứ VI; tổ chức Hội nghị tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyển đổi số cho cán bộ quản lý các trường Mầm mon, phổ thông.
Tổ chức cho học sinh các cơ sở giáo dục tham gia và đạt kết quả cao trong các hội thi trong nước và quốc tế: Lào Cai đoạt 3 giải tại Cuộc thi Đại sứ Văn hóa đọc toàn quốc (Em Lê Việt Hoàng, học sinh lớp 10D, Trường THPT Số 1 thành phố Lào Cai đoạt giải Nhì chung kết toàn quốc khối THPT và giải Chuyên đề “Sáng kiến, kinh nghiệm phát triển văn hóa đọc ấn tượng nhất”; em Má Thị Dinh, học sinh lớp 5A2, trường Phổ thông DTBT Tiểu học & THCS Hầu Thào, thị xã Sa Pa giành giải Ba khối tiểu học chung kết toàn quốc). Đạt 2 giải Bạc cuộc thi triển lãm khoa học và phát minh quốc tế (ISIF 2024) được tổ chức tại Bali – Indonesia, (cuộc thi có 821 đội thi đến từ 25 nước). Nhóm học sinh: Nguyễn Minh Châu, lớp 12D3; Phạm Gia Khiêm, lớp 11A2; Nguyễn Bảo Phúc, lớp 11A2; Lê Quốc Việt, lớp 11A2; Hà Đức Anh, lớp 11A2 với dự án "Ứng dụng công nghệ NFC trong hỗ trợ bệnh nhân tại các bệnh viện" đã xuất sắc đạt giải Bạc. Nhóm học sinh: Phạm Tiến Thành, lớp 12A2; Trần Phương Thảo, lớp 11A2; Lê Anh Quân, lớp 11A2; Phạm Việt Hoàng, lớp 11A2; Trần Hoàng Phúc, lớp 11A2 với dự án "Ứng dụng nhựa tái chế và các chất phụ gia trong sản xuất gạch xây dựng" đã xuất sắc đạt giải Bạc.
6.4. Văn hóa, thể thao
- Các hoạt động văn hóa phục vụ cơ sở tiếp tục được chú trọng triển khai thực hiện. Trong tháng, các đội chiếu phim, tuyên truyền lưu động tại cơ sở thực hiện 135 buổi, lũy kế thực hiện 880 buổi, bằng 90,2% kế hoạch; trong đó, phục vụ vùng sâu, vùng xa 83 buổi, lũy kế thực hiện 706 buổi, bằng 103% kế hoạch. Thực hiện chiếu phim lưu động 12 buổi, lũy kế thực hiện 88 buổi, bằng 88% kế hoạch.
- Thực hiện tập luyện, xây dựng 13 tiết mục mới, bằng 86,6% kế hoạch; biểu diễn phục vụ cơ sở, nhiệm vụ chính trị 65 buổi, bằng 92,8% kế hoạch. Tiếp tục tập luyện, dàn dựng chương trình tham gia Liên hoan ca múa nhạc chuyên nghiệp toàn quốc; Chương trình kỷ niệm 80 thành lập quân đội nhân dân Việt Nam và Tết vì người nghèo. Phối hợp biểu diễn tại Festival Thổ cẩm Lào Cai - Sa Pa miền sương mây”.
- Công tác xây dựng và phát triển phong trào thể dục thể thao ở cơ sở tiếp tục được duy trì, tạo nguồn vận động viên cho tuyến tỉnh cũng như bảo tồn, phát triển các môn thể thao dân tộc. Trong tháng, đăng cai tổ chức 01 giải bóng chuyền vô địch quốc gia Cup hoá chất Đức Giang năm 2024 (bảng nữ vòng 2 và vòng chung kết xếp hạng). Tiếp tục triển khai kế hoạch Giải đua xe đạp quốc tế “Một đường đua - Hai quốc gia” Lào Cai (Việt Nam) - Hồng Hà (Trung Quốc). Lũy kế đã tổ chức thực hiện 21 giải thể thao, đạt 95,45% kế hoạch. Tham gia 04 giải thể thao toàn quốc: Giải xe đạp địa hình cự ly ngắn vòng 5 - Cup các CLB quốc gia, đạt 04 HCV, 01 HCB, 02 HCĐ; Vô địch wushu các đội mạnh quốc gia, đạt 01 HCB, 03 HCĐ; Vô địch xe đạp địa hình và đường trường quốc gia, đạt 01 HCB, 01 HCĐ; Vô địch taekwondo quốc gia, đạt 01 HCĐ. Lũy kế tham gia 34 giải thể thao thành tích cao, đạt 103% kế hoạch với 217 huy chương các loại (65 HCV, 99 HCB, 53 HCĐ)./.