Tình hình kinh tế - xã hội quý IV và cả năm 2024

Năm 2024, có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng tốc thực hiện và phấn đấu hoàn thành mục tiêu của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2020 - 2025 và 18 Đề án trọng tâm của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Bước vào năm 2024, việc triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh tuy có những thuận lợi nhưng vẫn còn không ít những khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gay gắt hơn, nhiều nền kinh tế lớn tăng trưởng chậm lại, giá cả leo thang thậm chí một số nước rơi vào suy thoái,… đã tác động mạnh hơn đến các hoạt động kinh tế, đầu tư, tiêu dùng toàn cầu, trong đó có nước ta. Đối với tỉnh Lào Cai, hoạt động sản xuất công nghiệp còn gặp những khó khăn nhất định; hoạt động xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu còn hạn chế; thu hút đầu tư chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh; tiến độ xây dựng một số dự án, công trình trọng điểm còn chậm; nhiều vướng mắc trong quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, môi trường đầu tư, bồi thường giải phóng mặt bằng chưa được giải quyết dứt điểm; thiên tai, thời tiết diễn biến phức tạp, đặc biệt là lũ lụt, sạt lở nghiêm trọng gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản do hoàn lưu cơn bão số 3 (Yagi) gây ra, đã tác động rất lớn đến sản xuất kinh doanh và đời sống của Nhân dân.

Với quyết tâm phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở mức cao nhất, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành tập trung thực hiện tốt các chính sách và giải pháp của Chính phủ, của tỉnh nhằm thúc đẩy và phục hồi phát triển sản xuất kinh doanh, thực hiện tốt an sinh xã hội. Cùng với đó, UBND tỉnh đã ban hành các Chỉ thị, Chương trình, Kế hoạch, các văn bản chỉ đạo các ngành, các địa phương trong tỉnh thực hiện tốt các mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế - xã hội cả năm; trong đó, đã ban hành Chương trình số 05/CTr-UBND ngày 19/01/2024 với 12 nhóm giải pháp, nhiệm vụ cụ thể, gắn với việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 05/01/2024 của Chính phủ về nhiệm vụ giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước năm 2024.

Nhìn chung, tình hình kinh tế - xã hội năm 2024 của tỉnh tiếp tục được duy trì và phát triển. Sản xuất nông nghiệp được triển khai kịp thời, đảm bảo khung thời vụ; công tác bảo vệ, phòng, chống cháy rừng, cảnh báo nguy cơ cháy rừng được tăng cường thực hiện; công tác phòng chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm được quan tâm, đàn vật nuôi phát triển ổn định, các sản phẩm chăn nuôi đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của Nhân dân; công tác vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh tiếp tục được chú trọng; chương trình xây dựng nông thôn mới được Nhân dân hưởng ứng tích cực; sản xuất công nghiệp tuy gặp những khó khăn nhất định nhưng tiếp tục được duy trì; hoạt động vận tải đáp ứng nhu cầu của hành khách và hàng hóa của Nhân dân; hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ phát triển tốt, không có biến động lớn về giá trước, trong và sau Tết Nguyên đán; các lĩnh vực văn hóa, thông tin được thực hiện tốt; công tác an sinh xã hội được quan tâm; công tác y tế đảm bảo tốt việc khám chữa bệnh cho người dân; quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực như sau:

1. Tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh Lào Cai quý IV/2024 ước tăng 6,36% so với cùng kỳ năm 2023, thấp hơn mức tăng 8,06% của quý IV/2023, do quý IV năm 2024 ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 3 (Yaghi) gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản, đã tác động rất lớn đến sản xuất kinh doanh và đời sống của Nhân dân. Cả năm 2024 tốc độ tăng trưởng ước đạt 7,38%, cao hơn mức tăng 5,18% của năm 2023; xếp thứ 9/14 tỉnh TDMNPB và xếp thứ 34/63 tỉnh, thành phố. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, song kết quả tăng trưởng năm 2024 cho thấy hiệu quả của sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, linh hoạt, kịp thời của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh cùng với sự chủ động, nỗ lực của các cấp, các ngành, người dân và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Lào Cai.

Trong mức tăng chung 7,38% của năm 2024, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,74%; đóng góp 0,25 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,15%, đóng góp 3,19 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 8,47%, đóng góp 3,46 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 4,89%, đóng góp 0,48 điểm phần trăm vào mức tăng chung, cụ thể theo vực kinh tế:

1.1. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản

Năm 2024, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh còn gặp những khó khăn nhất định như: Giá vật tư nông nghiệp, giá thức ăn chăn nuôi tăng cao, nguyên liệu đầu vào và cước vận chuyển tăng, trong khi giá bán sản phẩm thấp và không ổn định, thời tiết, khí hậu bất thường, đặc biệt là cơn bão số 3 (bão Yagi) gây sạt lở, ngập lụt trên diện rộng đã ảnh hưởng thiệt hại lớn về sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản... Mặc dù tỉnh đã nhanh chóng chỉ đạo các cấp, các ngành, địa phương tập chung khắc phục hậu quả đồng thời triển khai thực hiện tốt các chính sách về phát triển nông nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh, nhất là thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 10-NQ/TU ngày 26/8/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về chiến lược phát triển nông nghiệp hàng hóa tỉnh Lào Cai đên năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng đạt thấp. Quý IV/2024 tăng 0,37%, thấp hơn mức tăng 5,91% của quý cùng kỳ năm trước, ước tính năm 2024 tăng 1,74%, đóng góp 0,25 điểm phần trăm vào mức tăng chung (năm 2023 tăng 3,65%).

1.2. Khu vực công nghiệp và xây dựng

Năm 2024, khu vực công nghiệp và xây dựng còn gặp khó khăn, do ảnh hưởng giá nguyên, nhiên vật liệu đầu vào tăng cao trong khi giá bán các sản phẩm giảm; thị trường xuất khẩu không ổn định, hàng tồn kho của một số ngành sản xuất công nghiệp chính còn ở mức cao; thiên tai, thời tiết diễn biến phức tạp, đặc biệt là ảnh hưởng của cơn bão số 3 gây sạt lở, ngập úng nhiều nhà máy thủy điện, nhà máy sản xuất; một số đơn vị gặp khó khăn trong việc hoàn thiện các thủ tục, hồ sơ về thuê đất, giải phóng mặt bằng, hoàn thiện hồ sơ pháp lý để thực hiện các dự án trọng điểm,... đã ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp. Tuy nhiên, tỉnh đã kịp thời triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp ổn định và duy trì sản xuất; cùng với đó, tỉnh đã tập trung phát triển công nghiệp chế biến sâu khoáng sản, công nghiệp phụ trợ, chú trọng áp dụng công nghệ hiện đại, tiên tiến trong sản xuất để nâng cao chất lượng và bảo vệ môi trường; công tác quản lý Nhà nước về khoáng sản luôn được theo dõi, bám sát tình hình, nắm bắt các khó khăn của các đơn vị và kịp thời có những giải pháp tháo gỡ khó khăn.

- Sản xuất công nghiệp: Tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp quý IV/2024 tăng 6,18% so với cùng quý năm trước; ước tính cả năm 2024 tăng 9,64% so với năm trước, đóng góp 2,46 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Trong đó:

+ Ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao nhất với mức tăng 13,78% so với năm 2023, đóng góp 1,37% vào mức tăng chung; do năm 2024 có thêm nhà máy thuỷ điện Móng Sến (6 MW), Nhà máy Bảo Nhai Bậc 1 (14MW) đã đi vào hoạt động chính thức phát điện lưới quốc gia và 01 dự án thủy điện Nậm Lúc hoàn thiện nâng công suất (từ 20MW lên 24MW) nâng tổng số dự án đã hoàn thành phát điện trên địa bàn tỉnh lên 74 dự án (tổng công suất lắp máy 1.162,85MW), mặt khác do năm 2023 hạn hán kéo dài không đảm bảo nguồn nước phát điện (năm 2023 tăng trưởng âm 8,62%), tuy nhiên năm 2024 do ảnh hưởng của bão số 3 đến nay còn một số nhà máy chưa hoạt động trở lại vì vậy kết quả đạt chưa tương xứng.

+ Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo gặp khó khăn do ảnh hưởng giá nguyên, nhiên vật liệu đầu vào tăng cao trong khi giá bán các sản phẩm giảm, thị trường xuất khẩu không ổn định, đơn đặt hàng giảm, thiếu nguyên vật liệu sản xuất (quặng Apatit); hàng tồn kho của một số ngành sản xuất công nghiệp chính còn ở mức cao nhưng vẫn duy trì và đạt mức tăng trưởng khá, với mức tăng 7,47%, đóng góp 0,71 điểm phần trăm vào mức tăng chung.

+ Ngành khai khoáng tuy còn gặp khó khăn do ảnh hưởng từ giá nguyên, nhiên vật liệu đầu vào và việc hoàn thiện các thủ tục, hồ sơ về thuê đất, giải phóng mặt bằng, đặc biệt là Công ty TNHH Khoáng sản và Luyện kim Việt Trung chưa hoạt động trở lại, tuy nhiên các đơn vị đã khắc phục khó khăn, duy trì sản xuất tốt. Tốc độ tăng trưởng năm 2024 đạt 6,62% so với năm trước, đóng góp 0,39 điểm phần trăm vào mức tăng chung (năm 2023 tăng trưởng -5,7%).

- Hoạt động xây dựng: Trong năm mặc dù ảnh hưởng nặng nề của cơn bão số 3 nhưng vẫn đạt mức tăng trưởng khá, thể hiện sự vào cuộc của các cấp, các ngành trong việc giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản và đẩy nhanh tiến độ một số công trình trọng điểm của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng quý IV/2024 đạt 7,12% so với cùng kỳ năm trước; cả năm 2024 tăng 7,81%, đóng góp 0,73 điểm phần trăm vào mức tăng chung.

1.3. Khu vực dịch vụ

Năm 2024, hoạt động dịch vụ tiếp tục duy trì đà phát triển, là điểm sáng trong phát triển kinh tế của tỉnh. Với các hoạt động kích cầu du lịch cùng với chuỗi các sự kiện được diễn ra, nhiều lễ hội truyền thống được tổ chức tại các địa phương, như: Chương trình kích cầu du lịch Sapa “Chạm Sapa - Chạm những tầng mây”; Hội trợ thương mại Quốc tế Việt - Trung; Festival “Thổ cẩm Lào Cai - Sắc màu văn hóa”; giải đua xe đạp quốc tế “Một đường đua - hai quốc gia”,... đã thu hút nhiều du khách đến với tỉnh Lào Cai. Tăng trưởng quý IV của khu vực này đạt 8,88% so với cùng kỳ; cả năm tăng 8,47%, đóng góp 3,46 điểm điểm phần trăm vào mức tăng chung.

1.4. Quy mô, cơ cấu kinh tế

- Về quy mô kinh tế: Năm 2024, quy mô GRDP (theo giá hiện hành) tỉnh Lào Cai đạt 77.223,08 tỷ đồng, tăng 11,76% so với năm 2023, xếp thứ 4/14 tỉnh TDMN và xếp thứ 44/63 tỉnh, thành phố. GRDP bình quân đầu người đạt 97,48 triệu/người/năm, tăng 8,88 triệu đồng/người/năm so với năm 2023.

- Cơ cấu kinh tế: Năm 2024, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 13,27%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 39,02%; khu vực dịch vụ chiếm 38,13%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,58% (cơ cấu kinh tế năm 2023 lần lượt là 13,87%, 37,72%, 38,59% và 9,82%).

2. Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm

2.1. Tài chính

- Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh cả năm 2024 ước đạt 12.800 tỷ đồng, bằng 139% so với dự toán trung ương giao, bằng 100% dự toán UBND tỉnh giao tại và tăng 37% so với năm 2023, đây là số thu cao nhất của tỉnh Lào Cai từ trước đến nay, cụ thể:

+ Thu nội địa ước đạt 11.600 tỷ đồng, bằng 143% so với dự toán Trung ương giao, bằng 110% so với dự toán tỉnh giao và tăng 42% so với năm trước;

+ Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt 1.200 tỷ đồng, bằng 114% dự toán Trung ương giao, bằng 52% dự toán tỉnh giao và bằng 100% cùng kỳ năm trước.

- Tổng chi ngân sách địa phương dự ước hết năm 2024 đạt 27.974 tỷ đồng, bằng 165% dự toán Trung ương giao, bằng 149% dự toán tỉnh giao và tăng 80% so với năm trước.

Năm 2024, Tuy phải thực hiện chủ trương giảm chi tiêu ngân sách nhà nước để góp phần kiềm chế lạm phát, nhưng chi ngân sách địa phương vẫn đáp ứng được nhu cầu cho đầu tư phát triển và kinh phí hoạt động của các cấp, các ngành, các đơn vị để thực hiện nhiệm vụ được giao của mình. Dự phòng ngân sách năm 2024 được quản lý và sử dụng đúng quy định, chủ yếu tập trung đảm bảo nhiệm vụ chi về khắc phục thiên tai, phòng chống dịch bệnh và bổ sung các chế độ an sinh xã hội, góp phần đảm bảo trật tự xã hội và cải thiện đời sống Nhân dân.

2.2. Ngân hàng

Năm 2024, tăng trưởng tín dụng đạt kết quả tốt, góp phần tích cực hỗ trợ doanh nghiệp và phục hồi nền kinh tế trong thời gian qua. Tỉnh tiếp tục chỉ đạo các ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn chủ động tăng cường huy động vốn, tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng kinh tế, ưu tiên đầu tư cho các chương trình, dự án kinh tế trọng điểm thuộc 18 đề án trọng tâm của tỉnh, phục vụ phát triển nông nghiệp hàng hóa, cho vay xây dựng nông thôn mới, tín dụng ưu đãi, tín dụng chính sách, cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, đảm bảo an toàn vốn vay và tuân thủ quy định pháp luật liên quan, hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội; thực hiện chính sách khoanh nợ cho khách hàng bị ảnh hưởng sau bão số 3 (Yagi) theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro; giảm nợ xấu...;

- Công tác huy động vốn: Tổng nguồn vốn tín dụng đến 31/12/2024 ước đạt 51.700 tỷ đồng, tăng 10% so với 31/12/2023, đạt 100% kế hoạch tăng trưởng năm 2024.

- Hoạt động cho vay: Doanh số cho vay năm 2024 ước đạt 112.000 tỷ đồng, tăng 10,6% so với năm 2023; doanh số thu nợ ước đạt 106.000 tỷ đồng, tăng 12,3% so với năm 2023. Tổng dư nợ đến 31/12/2024 ước đạt 63.500 tỷ đồng, tăng 11,4% so với 31/12/2023, đạt 101,9% kế hoạch tăng trưởng. Quy mô tín dụng đứng thứ 4/14 tỉnh trung du và miền núi Bắc bộ, đứng thứ nhất trong 6 tỉnh Tây Bắc bộ.

- Chất lượng tín dụng: Trong năm, các ngân hàng đã chủ động tăng cường công tác kiểm soát chất lượng công tác tín dụng, tích cực thu hồi nợ quá hạn, nợ xấu. Đến 31/12/2024, tỷ lệ nợ xấu nội bảng trên tổng dư nợ dưới 1,3%, tăng 0,46 điểm phần trăm so với cuối năm 2023, trong tầm kiểm soát đảm bảo an toàn.

- Kết quả thực hiện nhiệm vụ trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo Thông tư số 02/2023/TT-NHNN được sửa đổi, bổ sung theo Thông tư số 06/2024/TT-NHNN: Tổng giá trị nợ đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lũy kế là 280,5 tỷ đồng đối với 53 khách hàng (13 doanh nghiệp, 01 HTX, 39 cá nhân); Thực hiện cho vay tín dụng ưu đãi thực hiện Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo Nghị định số 28/2022/NĐ-CP: Dư nợ đạt 49,5 tỷ đồng, với 790 khách hàng. Hỗ trợ khách hàng vay vốn bị ảnh hưởng do cơn bão số 3 (Yagi): Tổng số khách hàng đang vay vốn bị ảnh hưởng, thiệt hại do cơn bão số 3 là 3.536 khách hàng (doanh nghiệp là 52; cá nhân, hộ gia đình là 3.484), với số dư nợ bị ảnh hưởng là 5.844 tỷ đồng; thực hiện giảm tiền lãi vay cho 984 khách hàng, với số tiền đã giảm là gần 12,03 tỷ đồng, dư nợ đã được áp dụng giảm lãi suất là 5.311 tỷ đồng; cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho 48 khách hàng, giá trị dư nợ được cơ cấu là 33,98 tỷ đồng; cho vay mới đối với 118 khách hàng, dư nợ 500 tỷ đồng.

2.3. Bảo hiểm

Ước tính hết năm 2024, toàn tỉnh có 80.571 người tham gia BHXH, tăng 2,71% so với năm 2023 (trong đó: 64.512 người tham gia BHXH bắt buộc; 16.059 người tham gia BHXH tự nguyện); 56.300 người tham gia BHTN, tăng 1,43% so với năm 2023. Thực hiện giải quyết chế độ BHTN cho 2.375 lượt lao động; giải quyết cho 27 người hưởng trợ cấp hàng tháng với số tiền là 34,2 triệu đồng, 12 hồ sơ trợ cấp một lần với số tiền là 678,7 triệu đồng; hỗ trợ tư vấn việc làm cho 100% lao động đến tư vấn và giải quyết đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp.

3. Chỉ số giá

Với việc thực hiện linh hoạt, kịp thời các giải pháp đảm bảo cân đối cung cầu, bình ổn thị trường, đã giữ cho nguồn hàng hóa trên địa bàn tỉnh Lào Cai ổn định, dồi dào, đảm bảo về số lượng và giá cả; thị trường hàng hóa trên địa bàn tỉnh đáp ứng tốt nhu cầu của người dân trong các dịp Lễ, Tết cũng như hoạt động thường nhật. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2024 tăng 0,19% so với tháng trước, so với cùng kỳ năm trước tăng 1,58%; quý IV năm 2024 tăng 1,69% so với quý cùng kỳ năm 2023; bình quân cả năm 2024, CPI tăng 1,59% so với bình quân cùng kỳ năm trước.

3.1. Chỉ số giá tiêu dùng

CPI tháng Mười hai tăng 0,19% so với tháng trước. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 4 nhóm giữ giá ổn định, 5 nhóm tăng giá, 2 nhóm giảm giá so với tháng trước.

- Các nhóm có chỉ số ổn định: Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng; nhóm bưu chính viễn thông; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch (CPI=100).

- Các nhóm có chỉ số tăng: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,02%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,09%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,78%; nhóm giao thông tăng 0,33%; nhóm giáo dục tăng 0,12%.

- Nhóm có chỉ số giảm: Nhóm đồ uống và thuốc lá giảm 0,14; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,02%.

CPI quý IV/2024 tăng 1,69% so với cùng quý năm trước. Bình quân cả năm 2024 tăng 1,59% so với bình quân năm 2023; trong đó, 9 nhóm có chỉ số tăng và 2 nhóm có chỉ số giảm. Các yếu tố chính làm tăng CPI năm 2024 so với năm 2023 gồm: (1) Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 8,47%, do giá dịch vụ y tế tăng theo Thông tư mới của Bộ Y tế; (2) Giá hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,74%, chủ yếu do giá các mặt hàng đồ trang sức và dịch vụ chăm sóc cá nhân tăng theo ảnh hưởng của giá vàng và nhu cầu tiêu dùng của người dân; (3) Giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,89%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,53%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,02%, do nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng; (4) Giá nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,03%, do nhà sản xuất tăng giá bán khi các yếu tố chi phí sản xuất tăng; (5) Giá nhóm giao thông tăng 0,03%, tăng theo các đợt điều chỉnh giá của Bộ Công Thương dưới sự ảnh hưởng của thị trường trong nước và quốc tế; (6) Nhóm nhà ở, điện nước và vật liệu xây dựng tăng 1,54%, do giá các mặt hàng xi măng, sắt, thép, cát tăng theo giá nguyên vật liệu đầu vào; (7) Giá nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,32%, do phí truyền hình, internet và các mặt hàng hoa, cây cảnh tăng.

Bên cạnh các yếu tố làm tăng CPI cũng có các yếu tố góp phần làm giảm CPI năm 2024 so với năm trước như: (1) Chỉ số nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,14%, do giá điện thoại thế hệ cũ giảm; (2) Chỉ số nhóm giáo dục giảm 10,65%, do các cơ sở giáo dục thực hiện thu học phí theo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh.

3.2. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ

Chỉ số giá vàng tháng 12/2024 giảm 1,40% so với tháng trước và tăng 37,97% so với tháng 12 năm trước; bình quân cả năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 31,38%. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2024 tăng 0,01% so với tháng trước và tăng 4,88% so với tháng 12 năm trước; bình quân cả năm 2024 tăng 5,54%.

4. Đầu tư và xây dựng

Năm 2024, với sự chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, sự vào cuộc của cấp ủy, chính quyền các cấp, sự nỗ lực của các đơn vị, các chủ đầu tư, các doanh nghiệp trong việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án lớn, dự án trọng điểm trên địa bàn tỉnh; tập trung chỉ đạo, điều hành triển khai thực hiện quyết liệt các nội dung theo Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 08/8/2024 của Thủ tướng Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công những tháng còn lại của năm 2024; triển khai đồng bộ, kịp thời, hiệu quả hơn các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để đảm bảo tỷ lệ giải ngân của năm đạt trên 95% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao; các cấp, các ngành trong tỉnh đã cố gắng nỗ lực trong việc triển khai kế hoạch đầu tư công; các chủ dự án quyết liệt đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình, giải quyết những tồn đọng, vướng mắc, đẩy mạnh hoàn thiện các thủ tục đầu tư, vì vậy kết quả đầu tư, xây dựng thực hiện trên địa bàn tăng khá so với năm trước.

4.1. Đầu tư phát triển

Tổng nguồn vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn theo giá hiện hành quý IV/2024 ước đạt 9.549,52 tỷ đồng, tăng 13,01% so với quý III/2024 và tăng tăng 14,57% so với quý cùng kỳ năm trước; cả năm 2024 ước đạt 32.318,15 tỷ đồng, tăng 12,17% so với năm 2023, cụ thể các nguồn vốn như sau:

- Vốn nhà nước trên địa bàn: Vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước trên địa bàn quý IV/2024 ước đạt 3.174,73 tỷ đồng, tăng 16,44% so với quý trước và tăng 50,20% so với cùng kỳ năm trước. Ước thực hiện cả năm 2024 đạt 9.290,93 tỷ đồng, chiếm 28,74% trong tổng vốn đầu tư toàn tỉnh và tăng 26,49% so với năm 2023, tăng chủ yếu ở vốn tự có của của doanh nghiệp nhà nước (Công ty Apatit Lào Cai, công ty Xăng dầu Lào Cai,...); đồng thời Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia, đặc biệt là việc đầu tư tái thiết các khu dân cư trong tỉnh bị ảnh hưởng nặng nề từ cơn bão số 3 (Yagi). Hiện nay, một số dự án đã và đang được triển khai khẩn trương thi công như: Dự án Đường nối đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai đến thị trấn Sa Pa; Bệnh viện đa khoa huyện Bát Xát; xây mới Bệnh viện đa khoa tỉnh Lào Cai giai đoạn 2; cải tạo, nâng cấp tuyến đường Bản Xèo - Dền Sáng - Y Tý, huyện Bát Xát; đường kết nối Tỉnh lộ 151 (Võ Lao, Văn Bàn) với đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai (tại xã Cam Cọn, huyện Bảo Yên); cầu biên giới qua Sông Hồng tại xã Bản Vược,…

- Vốn ngoài nhà nước: Ước thực hiện quý IV/2024 đạt 6.360,78 tỷ đồng, tăng 11,25% so với quý trước và tăng 2,62% so với quý cùng kỳ năm trước. Cả năm 2024 ước đạt 22.987,87 tỷ đồng, tăng 63,44% so cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng do tăng vốn của tổ chức, doanh nghiệp, các dự án trên địa bàn tỉnh và tăng vốn đầu tư trong dân cư.

- Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài: Ước thực hiện quý IV/2024 đạt 14,01 tỷ đồng, tăng 127,41% so với quý trước và giảm 39,26% so với quý cùng kỳ năm trước; cả năm 2024 ước đạt 39,35 tỷ đồng, giảm 16,82% so với năm 2023.

- Về tình hình thu hút, đầu tư: Mặc dù môi trường sản xuất kinh doanh của Lào Cai luôn được quan tâm cải thiện, cơ sở hạ tầng giao thông được đầu tư, nâng cấp... Tuy nhiên, việc thu hút đầu tư FDI còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng của Lào Cai, nguyên nhân là do: Những khó khăn vốn có của tỉnh miền núi, điều kiện khó khăn, dân trí không đồng đều, cách xa các trung tâm đô thị lớn (thành phố Hà Nội), hệ thống cảng biển (Hải Phòng); mặc dù có đường cao tốc kết nối, song giá xăng, dầu tăng dẫn đến chi phí vận chuyển cao; một số dự án lớn được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm, mong muốn được đầu tư vào tỉnh, nhưng còn vướng các quy định, cơ chế, chính sách đặc thù của nhà nước... mặt khác, hầu hết các dự án FDI đề xuất mới của các nhà đầu tư (chủ yếu trên lĩnh vực du lịch - dịch vụ, nông nghiệp) lại chưa phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Vì vậy, nhà đầu tư phải phối hợp với địa phương thực hiện các thủ tục, trình tự về điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo quy định; nội dung này thường mất khá nhiều thời gian, ảnh hưởng đến quyết tâm đầu tư của doanh nghiệp.

Lũy kế đến thời điểm báo cáo, tỉnh Lào Cai có 28 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt 734,834 triệu USD; các dự án chủ yếu tập trung ở các lĩnh vực công nghiệp khai thác, chế biến, du lịch - dịch vụ, các dự án thuộc lĩnh vực nông lâm nghiệp thủy sản chiếm tỷ lệ thấp, quy mô nhỏ; các dự án FDI tập trung chủ yếu tại các Khu công nghiệp, thị xã Sa Pa, huyện Văn Bàn là các địa phương có nhiều lợi thế phát triển công nghiệp, du lịch.

4.2. Hoạt động xây dựng

Năm 2024, hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh duy trì ổn định. Tỉnh đã tập trung chỉ đạo các sở, ngành, địa phương và các nhà đầu tư giải quyết những tồn đọng, vướng mắc trong quá trình thực hiện đầu tư dự án, đẩy nhanh việc hoàn thiện các thủ tục đầu tư, giải ngân vốn đầu tư và triển khai thi công các công trình dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước; cùng với đó, các đơn vị đã bám sát tình hình thực tế, trên cơ sở chỉ đạo của Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó lĩnh vực đầu tư công được quan tâm và chỉ đạo triển khai quyết liệt. Tuy nhiên, do ảnh hưởng hoàn lưu của cơn bão số 3 (Bão Yagi) trên địa bàn tỉnh đã gây thiệt hại rất nghiêm trọng về người và cơ sở hạ tầng của nhà nước và Nhân dân, đã ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng của toàn ngành.

Giá trị sản xuất ngành xây dựng theo giá so sánh quý IV/2024 ước đạt 4.273,17 tỷ đồng, tăng 41,4% so với quý trước và tăng 7,86% so với quý cùng kỳ năm trước. Ước tính cả năm 2024 đạt 12.039,24 tỷ đồng, tăng 8,16% so với năm 2023.

Năm 2024, các cấp, các ngành, địa phương trong tỉnh đã cố gắng nỗ lực trong việc triển khai kế hoạch đầu tư; các chủ dự án quyết liệt đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình, giải quyết những tồn đọng, vướng mắc, đẩy mạnh hoàn thiện các thủ tục đầu tư; công tác quy hoạch xây dựng được đẩy mạnh, nhiều quy hoạch quan trọng, dự án đầu tư lớn hoàn thành đưa vào khai thác,... Một số dự án trọng điểm đã và đang đẩy nhanh tiến độ như: Dự án cầu Phú Thịnh nối Quốc lộ 4E với khu đô thị Vạn Hoà; dự án Bệnh viện đa khoa tỉnh giai đoạn 2; Bệnh viện đa khoa các huyện: Mường Khương, Bát Xát; dự án Trường cao đẳng Lào Cai, Trường PTTH chuyên Lào Cai; dự án xây dựng tuyến đường kết nối từ câu Làng Giàng đến Quốc lộ 70; dự án Cảng hàng không Sa Pa; nâng cấp hồ thải quặng đuôi công ty cổ phần đồng Tả Phời - Vinacomin; các công trình kè dọc sông Hồng nhằm tạo cơ sở cho phát triển đô thị; một số dự án có tổng mức đầu tư lớn: Dự án đô thị mới Đông Bắc Sa Pa; dự án “Phát triển hạ tầng và đô thị bền vững tỉnh Lào Cai”; dự án kết nối đường sắt 3 giữa ga Lào Cai (tỉnh Lào Cai, Việt Nam) với ga Hà Khẩu Bắc (tỉnh Vân Nam - Trung Quốc), dự án ĐTXD và lắp đặt dây truyền tuyển quặng Apatit của Công ty CP đầu tư Apatit Tam Đỉnh Lào Cai tại Khu Công nghiệp Đông Phố Mới, thành phố Lào Cai; công ty Cổ phần May xuất khẩu Korea Vina tổ chức khởi công dự án Nhà máy sản xuất hàng may mặc xuất khẩu có tổng vốn đầu tư 99 tỷ đồng; công ty CP Đầu tư Xây dựng hạ tầng và giao thông khởi công xây dựng Thủy điện Ngòi Nhù 1A, thuộc huyện Văn Bàn tỉnh Lào Cai tổng vốn đầu tư 251,39 tỷ đồng; liên doanh công ty cổ phần Đông Á Golden Square và công ty cổ phần Foodinco Quy Nhơn khởi công xây nhà ở xã hội Golden Square Lào Cai tổng vốn đầu tư 2.085 tỷ đồng; dự án thủy điện Si Ma Cai tại thôn Cốc Rế, xã Bản Mế có công suất 18 MW, do công ty cổ phần Si Ma Cai làm chủ đầu tư với tổng mức đầu tư 749,59 tỷ đồng, công trình xây dựng tái thiết khu dân cư thôn Làng Nủ, Lào Cai tổng vốn đầu tư 7.200 tỷ đồng; công xây dựng tái thiết khu dân cư thôn Kho vàng, Bắc Hà - Lào Cai, tổng vốn đầu tư 7.600 tỷ đồng,...

5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

5.1. Tình hình đăng ký doanh nghiệp

Năm 2024, thực hiện cấp giấy chứng nhận đăng ký mới cho 636 doanh nghiệp và 56 đơn vị trực thuộc, giảm 1,6% so với cùng kỳ, tổng vốn đăng ký đạt 5.926 tỷ đồng; đăng ký tạm ngừng hoạt động cho 708 doanh nghiệp, tăng 27,6% so với cùng kỳ; giải thể 110 doanh nghiệp, tăng 25,4%; hoạt động trở lại 330 doanh nghiệp, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2023.

5.2. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

- Xu hướng đối kinh doanh với hoạt động ngành xây dựng: Qua kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp (DN) trên địa bàn tỉnh Lào Cai, đối với hoạt động ngành xây dựng trong quý IV/2024 cho thấy: Có 39,5% số DN đánh giá tình hình SXKD quý IV năm 2024 tốt hơn quý trước; 37,2% DN đánh giá gặp khó khăn và 23,3% số DN cho rằng tình hình SXKD ổn định. Dự kiến quý I/2025 so với quý IV/2024, có 39,5% số DN đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 32,6% số DN dự báo khó khăn hơn và có 27,9% số DN cho rằng tình hình SXKD sẽ ổn định.

+ Về chi phí cho hoạt động sản xuất: Có 48,8% số DN đánh giá chi phí cho hoạt động sản xuất quý IV năm 2024 tăng so với quý III/2024; 16,3% số DN đánh giá chi phí cho hoạt động sản xuất giảm và 34,9% số DN cho rằng ổn định. Về xu hướng quý I/2025 so với quý IV/2024, có 62,8% DN dự báo chi phí cho hoạt động sản xuất tăng lên; 16,3% số DN dự báo giảm và có 20,9% số DN dự báo ổn định.

+ Về sử dụng lao động cho hoạt động sản xuất: Có 30,2% số DN có lao động cho hoạt động sản xuất quý IV/2024 cao hơn quý III/2024; 11,6% số DN có lao động cho hoạt động sản xuất giảm và 58,2% số DN có lao động cho hoạt động sản xuất ổn định. Xu hướng quý I/2025 khả quan hơn so với quý IV/2024 với 30,2% số DN dự kiến lao động cho hoạt động sản xuất tăng lên; có 58,2% số DN dự kiến có lao động cho hoạt động sản xuất ổn định và chỉ có 11,6% số DN dự kiến lao động cho hoạt động sản xuất giảm.

+ Về hợp đồng xây dựng mới: Có 30,2% số DN khẳng định số hợp đồng xây dựng mới quý IV/2024 cao hơn quý III/2024; 51,2% số DN có hợp đồng xây dựng mới ổn định và 18,6% số DN dự kiến có hợp đồng xây dựng mới giảm. Xu hướng quý I/2025 so với quý IV/2024, có 41,9% số DN dự kiến tăng hợp đồng xây dựng mới; 30,2% số DN dự kiến ổn định và có 27,9% số DN dự kiến giảm hợp đồng xây dựng mới.

- Xu hướng kinh doanh đối với ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Qua kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các DN trên địa bàn tỉnh Lào Cai đối với ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý IV/2024 cho thấy: Có 35,9% số DN đánh giá tình hình SXKD quý IV năm nay tốt hơn quý trước; 25,64% DN  đánh giá gặp khó khăn và 38,46% số DN cho rằng tình hình SXKD ổn định. Dự kiến quý I/2025 so với quý IV/2024, có 17,95% số DN đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 23,08% số DN dự báo khó khăn hơn và 58,97% số DN cho rằng tình hình SXKD sẽ ổn định.

+ Về khối lượng sản xuất: Có 28,21% số DN đánh giá khối lượng sản xuất quý IV năm nay tăng so với quý trước; 25,64% số DN đánh giá khối lượng sản xuất giảm và có 46,15% số DN cho rằng ổn định. Về xu hướng quý I/2025 so với quý IV/2024, có 23,08% DN dự báo khối lượng sản xuất tăng lên; 23,08% số DN dự báo giảm và 53,85% số DN dự báo ổn định. Dự kiến 6 tháng tiếp theo so với 6 tháng hiện tại, có 20,51% số DN đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 61,54% số DN cho rằng tình hình SXKD sẽ ổn định và có 17,95% số DN dự báo giảm đi. Dự kiến năm tiếp theo so với năm hiện tại, có 17,95% số DN đánh giá xu hướng khối lượng sản xuất sẽ tốt lên; 64,10% số DN cho rằng khối lượng sản xuất sẽ ổn định và chỉ có 17,95% số DN dự báo khối lượng sản xuất giảm đi.

+ Về đơn đặt hàng: Có 25% số DN có đơn đặt hàng quý IV năm nay cao hơn quý trước; 25% số DN có đơn đặt hàng giảm và 50% số DN có đơn đặt hàng ổn định. Xu hướng quý I/2025 không khả quan hơn so với quý IV/2024 chỉ có 22,22% số DN dự kiến có đơn hàng tăng lên; 25% số DN dự kiến đơn hàng giảm và 52,78% số DN dự kiến có đơn hàng ổn định. Dự kiến 6 tháng tiếp theo so với 6 tháng hiện tại, chỉ có 13,89% số DN đánh giá xu hướng đơn đặt hàng mới sẽ tốt lên; 61,11% số DN cho rằng tình hình đơn đặt hàng mới sẽ ổn định và có 25% số DN dự báo giảm đi. Dự kiến năm tiếp theo so với năm hiện tại, có 13,89% số DN đánh giá xu hướng đơn đặt hàng mới sẽ tốt lên; có tới 66,67% số DN cho rằng đơn đặt hàng mới sẽ ổn định và chỉ có 19,44% số DN dự báo đơn đặt hàng mới giảm đi, cho thấy dự báo của các DN việc tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của tỉnh tính khả quan chưa cao trong năm 2024.

+ Về tồn kho sản phẩm: Chỉ có 15,38% số DN có lượng tồn kho quý IV năm nay tăng so với quý trước; có 28,21% số DN có lượng tồn kho giảm và có 56,41% số DN giữ ổn định. Xu hướng quý I/2025 so với quý IV/2024, không có  số DN nào dự báo lượng hàng tồn kho sản phẩm sẽ tăng; có 28,21% số DN cho rằng lượng hàng tồn kho giảm và có tới 71,79% số DN  dự báo giữ ổn định.

+ Về chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm: Có 28,21% số DN khẳng định chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm quý IV năm nay tăng so với quý trước; chỉ có 5,13% số DN cho biết chi phí giảm và có tới 66,67% số DN cho rằng chi phí tương đương quý trước. Xu hướng trong quý I/2024, có 10,26% số DN dự kiến chi phí sản xuất sẽ tăng so với quý IV/2024; chỉ có 7,69% số DN cho rằng chi phí giảm và có tới 82,05% số DN dự kiến chi phí sản xuất ổn định.

+ Về sử dụng lao động: Quý IV năm nay so với quý trước, chỉ có 7,69% số DN khẳng định quy mô lao động tăng; 12,82% số DN khẳng định giảm và có tới 79,49% số DN cho biết giữ ổn định. Dự kiến quý I/2025 so với quý IV/2024 có 5,13% số DN dự báo quy mô lao động tăng; 17,95% số DN dự báo giảm và 76,92% số DN cho rằng sẽ ổn định quy mô lao động. Dự báo 6 tháng tiếp theo so với 6 tháng hiện tại, chỉ có 5,13% số DN dự báo quy mô lao động tăng; có 15,38% số DN dự báo giảm và có tới 79,49% số DN cho rằng sẽ ổn định quy mô lao động. Dự kiến năm tiếp theo so với năm hiện tại, có 5,13% số DN dự báo quy mô lao động tăng; chỉ có 12,82% số DN dự báo giảm và có tới 82,05% số DN cho rằng sẽ ổn định quy mô lao động.

+ Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Trong các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của DN  trong quý IV/2024, có 69,23% DN cho rằng do nhu cầu thị trường trong nước thấp; 46,15% DN cho rằng khả năng cạnh tranh cao của hàng trong nước; 41,03% DN cho rằng thiếu nguyên, nhiên, vật liệu; 28,21% DN cho rằng gặp khó khăn về tài chính là các yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN; 23,08% DN cho rằng nhu cầu thị trường quốc tế thấp; 15,38% DN cho rằng tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu cao; 12,82% do thiết bị công nghệ lạc hậu; 10,26% DN cho rằng lãi suất cao;...

6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2024 mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về giá vật tư nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi tăng cao, nguyên liệu đầu vào và cước vận chuyển tăng, trong khi giá bán sản phẩm chăn nuôi thấp và không ổn định, thời tiết, khí hậu bất thường, đặc biệt là cơn bão số 3 (Yagi) gây sạt lở, ngập lụt trên diện rộng đã ảnh hưởng thiệt hại lớn về sản xuất nông nghiệp,... Tuy nhiên, tỉnh đã nhanh chóng chỉ đạo tập chung khắc phục hậu quả đồng thời triển khai thực hiện tốt các chính sách về phát triển nông nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh, đồng thời thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 10-NQ/TU, ngày 26/8/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về chiến lược phát triển nông nghiệp hàng hóa tỉnh Lào Cai đên năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; vì vậy kết quả sản xuất được duy trì và phát triển; sản xuất nông nghiệp thực hiện đúng khung thời vụ; công tác quản lý giống, phân bón được thực hiện tốt; chăn nuôi phát triển ổn định, không có dịch bệnh lớn xảy ra.

6.1. Sản xuất nông nghiệp

a) Trồng trọt

- Cây hàng năm:

Tổng diện tích gieo trồng ước đạt 82,48 nghìn ha, giảm 2,88% so với năm 2023 do một số diện tích bị thu hồi phục vụ cho các công trình xây dựng cơ bản và làm đường giao thông, một số diện tích chuyển sang trồng cây lâm nghiệp, cây lâu năm và nuôi trồng thủy sản, trong đó:

+ Cây lúa: Diện tích gieo trồng đạt 34,14 nghìn ha, tăng 0,48% so với năm trước; sản lượng lúa cả năm ước tính đạt 179,22 nghìn tấn, giảm 3,59%, do ảnh hưởng của cơn bão số 3 làm thiệt hại 2,35 nghìn ha lúa, ước tính sản lượng thiệt hại là 10,29 nghìn tấn; năng suất đạt 52,49 tạ/ha.

+ Cây ngô: Diện tích gieo trồng cả năm đạt 32,80 nghìn ha, giảm 5,83% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng đạt 128,6 nghìn tấn, giảm 5,19% so với năm 2023; sản lượng giảm mạnh so với năm trước là do diện tích gieo trồng giảm, mặt khác do ảnh hưởng của cơn bão số 3 làm đổ gãy mất trắng 1,09 nghìn ha, ước tính sản lượng thiệt hại khoảng 4,62 nghìn tấn.

Tổng sản lượng lương thực có hạt sơ bộ năm 2024 đạt 307,82 nghìn tấn, giảm 4,27% so với năm 2023 và đạt 93,97% kế hoạch năm. Nguyên nhân giảm chủ yếu là do ảnh hưởng của cơn bão số 3, làm thiệt hại 2,35 nghìn ha lúa, 1,09 nghìn ha ngô.

+ Cây đậu tương: Diện tích tích gieo trồng cả năm đạt 0,95 nghìn ha, giảm 30,37% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng sơ bộ đạt 1,46 nghìn tấn, giảm 30,3%. Diện tích giảm do hiệu quả kinh tế thấp, người dân không trồng nhiều.

+ Cây lạc: Diện tích gieo trồng cả năm đạt 1,53 nghìn ha, tăng 15,14% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng ước đạt 2,41 nghìn tấn tăng 14,75%. Diện tích, sản lượng tăng do người dân chuyển một phần diện tích cây đậu tương sang trồng lạc để nâng cao hiệu quả kinh tế.

+ Cây rau các loại: Tổng diện tích gieo trồng cả năm đạt 11,84 nghìn ha, giảm 2,53% so với năm 2023; sản lượng rau cả năm ước đạt 166,68 nghìn tấn, giảm 4,59%, giảm chủ yếu do diện tích giảm và ảnh hưởng của cơn bão số 3.

- Cây lâu năm: Các địa phương đang tập trung chăm sóc, làm cỏ và thu hoạch một số cây ăn quả. Tổng diện tích cây ăn quả hiện có là 5,66 nghìn ha, tăng 0,06% so với năm 2023; trong đó, diện tích cây chuối đạt 2,24 nghìn ha, tăng 15,54%; sản lượng sơ bộ cả năm đạt 44,91 nghìn tấn, giảm 23,88%. Diện tích cây dứa đạt 2,11 nghìn ha, giảm 5,1% so với năm trước, giảm do một số diện tích già cỗi, sau khi thu hoạch người dân phá bỏ để trồng lại; sản lượng dứa cả năm ước đạt 46,22 nghìn tấn, tăng 1,24% so với năm trước.

+ Cây chè: Diện tích chè búp sơ bộ năm 2024 đạt 8,05 nghìn ha, tăng 1,48%; sản lượng đạt 45,71 nghìn tấn, tăng 3,22% so với năm trước. Do cây chè đang bắt đầu vào giai đoạn phát triển mạnh, cho năng suất cao, mặt khác thị trường chè chất lượng cao đã được mở rộng, giá trị thu mua chè búp tươi tăng lên rõ rệt. Năm 2024, tỉnh Lào Cai tiếp tục đẩy mạnh áp dụng các biện pháp kỹ thuật chăm sóc có hiệu quả đối với diện tích chè hiện có; cùng với đó, tiếp tục chuyển đổi cơ cấu giống chè, cải tạo, thay thế giống chè già cỗi, năng suất thấp bằng những giống mới năng suất, chất lượng cao (Bát Tiên, Kim Tuyên...), phù hợp với chế biến và thị trường tiêu thụ. Tỉnh cũng có những cơ chế thu hút đầu tư của các tổ chức, cá nhân đầu tư cơ sở chế biến chè tại các vùng chè tập trung; đồng thời nâng công suất dây chuyền chế biến của các cơ sở hiện có, nâng tỷ lệ sử dụng máy móc vào chế biến chè đạt trên 80%. Mặt khác, đẩy mạnh việc liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân từ xây dựng vùng nguyên liệu đến bao tiêu, chế biến sản phẩm nhằm đảm bảo sự ổn định, bền vững.

b) Chăn nuôi

Trong năm, tình hình chăn nuôi phát triển ổn định, công tác phòng chống dịch bệnh trên đàn vật nuôi được triển khai quyết liệt, không để bùng phát; các sản phẩm chăn nuôi đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của người dân. Tổng đàn vật nuôi tăng, riêng đàn trâu giảm do hiện nay nguồn thức ăn và diện tích chăn thả bị thu hẹp, mặt khác cùng với sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật nên nhân dân chủ yếu sử dụng cơ giới hóa thay thế sức kéo.

- Dự ước đàn trâu hiện có là 99,25 nghìn con, giảm 1,82% so với năm trước; số con xuất chuồng ước đạt 11,80 nghìn con, tăng 0,14%; sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 2,89 nghìn tấn, tăng 0,7% so với năm 2023.

- Đàn bò hiện có ước đạt 23,25 nghìn con, so với năm trước tăng 0,99%; số con xuất chuồng ước tính đạt 4,68 nghìn con, tăng 0,9%; sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 834 tấn, tăng 0,86% so với năm 2023.

- Đàn lợn hiện có ước đạt 395,6 nghìn con, tăng 3,32% so với năm trước; số con xuất chuồng cả năm ước đạt 600,51 nghìn con, tăng 4,26%; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng ước đạt 51,49 nghìn tấn, tăng 4,26%. Đàn lợn tăng ở hầu hết các địa phương trong tỉnh, do thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh, người chăn nuôi trong tỉnh tích cực tái đàn; đối với những hộ chăn nuôi quy mô lớn, áp dụng các điều kiện trong thực hiện chăn nuôi an toàn sinh học nên đàn lợn phát triển khá ổn định, nâng cao giá trị sản phẩm, mang lại hiệu quả kinh tế cao, giúp bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, giá lợn giống, thức ăn quá cao cũng làm hạn chế khả năng tái đàn của người dân.

- Đàn gia cầm hiện có 5.865,62 nghìn con, tăng 7,06% so với năm trước. Trong đó, đàn gà là 5.069,75 nghìn con, tăng 4,69%; sản lượng thịt gà hơi xuất chuồng sơ bộ đạt 21,84 nghìn tấn, tăng 2,97%; sản lượng trứng gà trong kỳ đạt 67.786 nghìn quả, tăng 4,03%.

- Tình hình dịch bệnh: Công tác tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm tiếp tục được triển khai thực hiện tốt. Năm 2024 toàn tỉnh đã triển khai tiêm phòng được 2.378,55 nghìn liều vắc xin các loại; dịch bệnh xảy ra trên đàn vật nuôi được khống chế kịp thời, tuy nhiên vẫn còn xảy ra tại các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ và không áp dụng tốt các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học. Cụ thể: Bệnh Tả lợn Châu Phi đã xảy ra tại 07 hộ/07 thôn/07 xã tại các huyện: Bát Xát, Si Ma Cai, Bảo Yên và Văn Bàn làm 96 con lợn mắc bệnh phải tiêu hủy với tổng trọng lượng phải tiêu hủy 3.073 kg. Bệnh Lở mồm long móng trâu, bò xảy ra tại 29 hộ/06 thôn/03 xã thuộc huyện Văn Bàn làm 59 con trâu, bò mắc bệnh; bệnh Tụ huyết trùng trâu, bò xảy ra tại 11 hộ/01 thôn/01 xã thuộc huyện Văn Bàn làm 25 con trâu, bò mắc bệnh; trong đó đã chết 09 con.

6.2. Lâm nghiệp

Năm 2024, tình hình sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định và phát triển; công tác trồng rừng, chăm sóc và nuôi dưỡng rừng, khai thác, thu nhặt gỗ và lâm sản khác tiếp tục được quan tâm; công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường kịp thời.

- Công tác trồng, chăm sóc rừng: Hiện nay, các địa phương đang tiếp tục đẩy nhanh tiến độ trồng rừng theo kế hoạch. Sơ bộ cả năm diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 3,72 nghìn ha, giảm 28,54% so với năm 2023 và đạt 118,53% kế hoạch năm.

- Khai thác rừng: Sản lượng gỗ khai thác cả năm ước tính đạt 130,43 nghìn m3, giảm 3,08% so với năm 2023. Sản lượng củi khai thác trong năm đạt 393 nghìn ste, giảm 1,35%, sản lượng gỗ và củi khai thác giảm do nhu cầu tiêu thụ gỗ của các đơn vị chế biến gỗ trên địa bàn tỉnh giảm, các sản phẩm từ gỗ đang gặp khó khăn ở đầu ra, đặc biệt là thị trường xuất khẩu.

- Tình hình thiệt hại rừng: Các địa phương tiếp tục đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát việc khai thác, kinh doanh, vận chuyển, chế biến lâm sản, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm theo quy định. Trong năm, xảy ra 12 vụ cháy rừng, thiệt hại 36,35 ha (rừng trồng 10,79 ha, rừng tự nhiên 25,56 ha); phát hiện 129 vụ vi phạm pháp luật về lâm nghiệp (phá rừng 29 vụ; lấn chiếm rừng 13 vụ, khai thác trái phép 28 vụ, vận chuyển lâm sản trái phép 59 vụ). Các vụ vi phạm đã được xử lý theo quy định của pháp luật.

6.3. Thuỷ sản

Năm 2024, sản xuất thủy sản tiếp tục nhận được sự quan tâm của chính quyền các cấp, đồng thời người dân đã chú trọng hơn trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật, mạnh dạn đầu tư giống mới có hiệu quả cao vào nuôi trồng thủy sản. Nuôi trồng thủy sản phát triển tốt cả về diện tích mặt nước, năng suất và sản lượng; công tác nuôi trồng thủy sản đã được các địa phương và Nhân dân chú trọng, tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật như nuôi thâm canh và bán thâm canh. Tổng diện tích thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 2,68 nghìn ha; sản lượng thu hoạch sơ bộ đạt 10,10 nghìn tấn, giảm 3,25% so với năm 2023, do ảnh hưởng của cơn bão số 3 làm thiệt hại 339,51 ha ao nuôi thủy sản; 136 tấn cá tầm và cá hồi thương phẩm; 2.914 tấn cá nước ấm; 444 nghìn con cá giống, trong đó 123 nghìn con cá giống nước lạnh bị thiệt hại.

7. Sản xuất công nghiệp

Năm 2024, hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh còn gặp khó khăn do ảnh hưởng giá nguyên, nhiên vật liệu đầu vào tăng cao trong khi giá bán các sản phẩm giảm; thị trường xuất khẩu không ổn định, hàng tồn kho của một số ngành sản xuất công nghiệp chính còn ở mức cao; thiên tai, thời tiết diễn biến phức tạp, đặc biệt là ảnh hưởng của cơn bão số 3 (Yagi) gây sạt lở, ngập úng nhiều nhà máy thủy điện, nhà máy sản xuất; một số đơn vị gặp khó khăn trong việc hoàn thiện các thủ tục, hồ sơ về thuê đất, giải phóng mặt bằng, hoàn thiện hồ sơ pháp lý để thực hiện các dự án trọng điểm,... đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất công nghiệp, vì vậy kết quả sản xuất đạt được chưa cao.

- Chỉ số sản xuất công nghiệp: Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 12 năm 2024 trên địa bàn tỉnh Lào Cai giảm 7,31% so với tháng trước và giảm 8,68% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, ngành công nghiệp khai khoáng giảm 14,68%; chế biến, chế tạo giảm 16,22%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng tăng 5,74%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý & xử lý rác thải, nước thải tăng 14,21%.

Tính chung 12 tháng năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng 7,19% so với năm trước. Trong các ngành công nghiệp, ngành công nghiệp khai khoáng tăng 6,42%, đóng góp 2,21 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,78%, đóng góp 1,36 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 13,04%, đóng góp 3,57 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,73%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm vào mức tăng chung. 

Năm 2024, hầu hết các ngành sản xuất công nghiệp của tỉnh có chỉ số sản xuất tăng so với năm 2023, cụ thể: Ngành khai khoáng quặng kim loại tăng 11,16%, chủ yếu khai thác quặng sắt tăng 15,59%, quặng đồng tăng 10,92%, do các DN trong lĩnh vực này duy trì sản xuất ổn định theo kế hoạch, có tăng đơn hàng; ngành sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 47,33%; sản xuất đồ uống tăng 15,73%; dệt tăng 83,98%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 62,08% do thay đổi quy mô DN và tái sản xuất (công ty cổ phần MDF); ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 3,50%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 40,70%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 8,29%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 0,46%; sản xuất và phân phối điện tăng 13,04%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 3,97%. Bên cạnh đó có 04 ngành có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ gồm: Ngành khai khoáng khác giảm 0,04%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy giảm 6,25%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 66,25%; sản xuất kim loại giảm 9,66%.

- Sản phẩm công nghiệp chủ yếu: Năm 2024, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng so với năm trước như: Quặng sắt tăng 15,59%; quặng đồng tăng 10,92%; quặng Apatit tăng 0,04%; sản phẩm tinh bột sắn tăng 69,10%; chè (trà) nguyên chất tăng 35,03%; bia hơi tăng 37,55%; sản phẩm nước tinh khiết tăng 7,12%; dịch vụ sản xuất các hàng dệt khác chưa được phân vào đâu tăng 83,98%; sản phẩm ván ép từ gỗ tăng 63,12%; phốt pho vàng tăng 1,24%; sản phẩm axit sunfuric tăng 10,73%; DCP tăng 7,20%; phân bón DAP tăng 31,58%; phân lân nung chảy tăng 91,54%; dược phẩm khác (cao atiso) tăng 40,7%; gạch xây dựng tăng 4,66%; bê tông tươi tăng 11,54%; thùng, bể chứa và các vật bằng sắt thép có dung tích >300 lít tăng 27,86%; điện sản xuất tăng 17,15%; nước uống được tăng 3,97%.  Tuy nhiên, trong kỳ cũng có một số sản phẩm giảm so với năm 2023 như: Quặng Felspar giảm 6,27%; dứa đóng hộp giảm 70,34%; gỗ xẻ giảm 100%; giấy đế giảm 6,25%; sản phẩm in khác giảm 35,08%; dịch vụ phụ thuộc liên quan đến in giảm 67,87%; sản phẩm axit photphoric giảm 3,88%; Supe Photphat (P2O5) giảm 22,77%; phân bón NPK giảm 18,33%; vàng chưa gia công giảm 17,39%; đồng ka tốt giảm 7,90%; cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép giảm 41,61%; điện thương phẩm giảm 2,86%. Các sản phẩm có chỉ số giảm là do trong kỳ một số DN vẫn phải tạm ngừng luân phiên để sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị, tái cơ cấu quy mô sản xuất DN, không đủ nguyên liệu đầu vào, nâng cấp dây chuyền sản xuất, xử lý hệ thống xả thải,...

- Chỉ số tiêu thụ sản phẩm: Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tháng 12/2024 giảm 2,14% so với tháng trước và giảm 11,45 so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2024, chỉ số tiêu thụ ngành chế biến, chế tạo giảm 5,27% so với cùng kỳ. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm đã ảnh hưởng đến chỉ số tiêu thụ chung toàn ngành như: In sao chép bản ghi các loại giảm 35,08%; sản xuất sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 4,09%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 9,79%; sản xuất kim loại giảm 17,50%. Nguyên nhân giảm chủ yếu do trong kỳ các DN tập trung khắc phục ảnh hưởng của bão lũ; sửa chữa, bảo dưỡng máy móc, thiết bị; thiếu nguyên liệu đầu vào; tình hình xuất khẩu hoá chất thất thường (phân bón DAP, Photpho vàng),... Bên cạnh đó, trong kỳ một số sản phẩm có chỉ số tiêu thụ tăng, do tăng nhu cầu và đơn hàng như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 46,37%; sản xuất đồ uống tăng 14,3%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 20,98%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 9,22%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 13,3%.

- Chỉ số tồn kho: Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/12/2024 giảm 0,33% so với cùng thời điểm năm 2023. Trong đó, ngành có chỉ số tồn kho giảm mạnh làm cho chỉ số tồn kho chung ngành công nghiệp giảm như: Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 81,42%; sản phẩm hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 23,29%; sản xuất thuốc hóa dược và dược liệu;...), đây là yếu tố tạo điều kiện cho việc thúc đẩy sản xuất của DN trong những tháng cuối năm 2024. Tuy nhiên, một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 79,31%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 102,07%; sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 30,92%; sản xuất kim loại tăng 12,84%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 23,43%.

Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân cả năm 2024 là 69,61%; trong đó các ngành có tỷ lệ tồn kho cao so với bình quân của toàn ngành công nghiệp như: Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 315,83%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu 730,34%.

- Chỉ số sử dụng lao động: Chỉ số sử dụng lao động trong các DN công nghiệp tháng 12 năm 2024 tăng 0,08% so với tháng trước; trong đó, chỉ số sử dụng lao động trong các DN nhà nước tăng 0,54%, DN ngoài nhà nước giảm 0,43%, DN có vốn đầu tư nước ngoài giảm 0,06%. So với cùng kỳ năm trước, chỉ số sử dụng lao động tháng 12 năm 2024 tăng 1,54%; chia theo loại hình, DN ngoài nhà nước tăng 2,67%, DN nhà nước tăng 2,67%, DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 0,12%; chia theo ngành công nghiệp, công nghiệp khai khoáng tăng 3,20%, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,90%, công nghiệp sản xuất và phân phối điện giảm 5,95%, cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,40%.

Tính chung cả năm 2024, tình hình lao động ở các DN sản xuất công nghiệp so với cùng kỳ tăng 2,37%. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 5,40%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,97% riêng ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện giảm 5,68%.

8. Thương mại, dịch vụ

Năm 2024, hoạt động thương mại dịch vụ tiếp tục duy trì đà phát triển, đây là điểm sáng trong phát triển kinh tế của tỉnh. Với các hoạt động kích cầu du lịch cùng với chuỗi các sự kiện được diễn ra, nhiều lễ hội truyền thống được tổ chức tại các địa phương, như: Chương trình kích cầu du lịch Sapa “Chạm Sapa - Chạm những tầng mây”; Hội trợ thương mại Quốc tế Việt - Trung; Festival “Thổ cẩm Lào Cai - Sắc màu văn hóa”; giải đua xe đạp quốc tế “Một đường đua - hai quốc gia”... đã thu hút nhiều du khách đến với tỉnh Lào Cai; đa số các lĩnh vực dịch vụ đều tăng trưởng khá, đặc biệt là hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ lưu trú, ăn uống, hoạt động kinh doanh vận tải, hoạt động cáp treo Fansipan thu hút lượng khách lớn; cửa khẩu quốc tế đường bộ số II Kim Thành hoạt động ổn định, mở ra cơ hội thuật lợi trong xuất nhập khẩu hàng hóa cho người dân và doanh nghiệp.

8.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

- Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 12/2024 ước đạt 2.863,24 tỷ đồng, tăng 14,65% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 1.952,49 tỷ đồng, tăng 12,83%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 489,11 tỷ đồng, tăng 17,48%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 27,34 tỷ đồng, tăng 21,27%; doanh thu dịch vụ khác đạt 385,29 tỷ đồng tăng 20,28% so với cùng kỳ 2023.

- Quý IV năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 8.333,29 tỷ đồng, tăng 12,89% so với cùng quý năm 2023. Xét theo ngành hoạt động: Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 5.704,97 tỷ đồng, tăng 11,69%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước tính đạt 1.440,4 tỷ đồng, tăng 15,25%; doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 79,28 tỷ đồng, tăng 11,61%; doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 1.108,63 tỷ đồng, tăng 16,27%.

- Tính chung cả năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 31.613,36 tỷ đồng, tăng 16,18% so với năm trước. Xét theo ngành hoạt động như sau: 

+ Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 21.548,84 tỷ đồng, chiếm 68,16% tổng mức và tăng 14,47% so với năm trước. Trong đó, lương thực, thực phẩm tăng 20,82%; may mặc tăng 22,96%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 9,92%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 32,8%; ô tô các loại tăng 22,62%; xăng dầu các loại tăng 14,53%; nhiên liệu khác tăng (trừ xăng dầu) 25,18%; đá quý, kim loại quý tăng 21,08%; hàng hóa khác tăng 24,36%. Nhóm hàng gỗ và vật liệu xây dựng giảm 10,96%; phương tiện đi lại (trừ ô tô kể cả phụ tùng) giảm 11,81% so với cùng kỳ năm 2023.

+ Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống năm 2024 ước tính đạt 5.701,23 tỷ đồng, chiếm 18,04% tổng mức và tăng 22,13% so với năm 2023.

+ Doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt đạt 307,20 tỷ đồng, chiếm 0,97% tổng mức và tăng 8,73% so với năm 2023.

+ Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 4.055,88 tỷ đồng, chiếm 12,83% tổng mức và tăng 18,07% so với năm 2023.

Năm 2024, doanh thu các ngành dịch vụ tăng khá so với năm 2023 là do tỉnh đã thực hiện triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, cùng với đó là thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, và các hoạt động kích cầu du lịch với chuỗi các sự kiện được diễn ra, nhiều lễ hội truyền thống được tổ chức tại các địa phương; hàng hóa được lưu thông, thông suốt, đáp ứng tốt nhu cầu của đời sống của nhân dân trong tỉnh, giá cả các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu ổn định, không có hiện tượng thiếu hàng tăng giá ở tất cả các mặt hàng; cửa khẩu quốc tế đường bộ số II Kim Thành hoạt động ổn định, đã mở ra cơ hội thuật lợi trong xuất nhập khẩu hàng hóa cho người dân và doanh nghiệp,... đã thu hút lượng lớn khách du lịch đến với Lào Cai.

8.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Năm 2024, công tác quản lý nhà nước về hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục được quan tâm; công tác phối hợp, trao đổi thông tin về tình hình xuất nhập khẩu, tạm nhập tái xuất hàng hóa qua các cửa khẩu trên địa bàn tỉnh giữa các ngành, đơn vị vẫn được triển khai thường xuyên, liên tục. Hàng hóa xuất khẩu chủ yếu vẫn là các mặt hàng truyền thống như gỗ ván bóc, sắn khô, trái cây tươi: thanh long, chôm chôm, chuối tươi và sầu riêng; hàng nhập khẩu: than cốc, phân bón, rau củ quả, cây cảnh, hóa chất, thiết bị. Lượng phương tiện thông quan tại cửa khẩu bình quân khoảng 450 xe/ngày, trong đó: xe xuất khẩu 68 xe/ngày, nhập khẩu 382 xe/ngày. Tại cửa khẩu quốc tế ga đường sắt, hoạt động thông quan được duy trì với 02 - 04 chuyến tàu xuất, nhập cảnh/ngày, hàng hóa thông quan tại cửa khẩu chủ yếu là lưu huỳnh.

Tổng giá trị xuất nhập khẩu, mua bán, trao đổi hàng hoá qua các cửa khẩu trong năm 2024 ước đạt 3.377,59 triệu USD, tăng 56,39% so với năm 2023, đạt 75% so kế hoạch giao, trong đó:

- Giá trị xuất khẩu ước đạt 1.828,03 triệu USD, tăng 114,38% so với năm 2023, đạt 96,21% kế hoạch năm.

- Giá trị nhập khẩu ước đạt 825,74 triệu USD, tăng 43,96% so với năm 2023, đạt 68,81% kế hoạch năm.

- Các loại hình (Tạm nhập tái xuât, KNQ, chuyển cửa khẩu, quá cảnh, Doanh nghiệp trong tỉnh thực hiện XNK tại các cửa khẩu khác) ước đạt 723,56 triệu USD, giảm 1,3% so với năm 2023, đạt 51,70% kế hoạch năm.

8.3. Vận tải hành khách và hàng hóa

Năm 2024, hoạt động kinh doanh vận tải trên địa bàn tỉnh cơ bản duy trì  và phát triển; tỉnh đã triển khai thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các đơn vị kinh doanh vận tải, hạ tầng giao thông phát triển thuận lợi, các tuyến Quốc lộ trong tỉnh, các tuyến giao thông đường bộ nội tỉnh được nâng cấp, giúp cho các đơn vị kinh doanh vận tải hoạt động ổn định và phát triển; đặc biệt là hoạt động cáp treo Fansipan hoạt động có nhiều khởi sắc. Tuy nhiên trong năm do ảnh hưởng của cơ bão số 3 (Yagi) gây sạt lở, ngập úng nhiều tuyến đường làm ách tắc giao thông cục bộ đã ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh vận tải vì vậy kết quả chỉ tăng nhẹ so với cùng kỳ năm 2023.

- Vận tải hành khách (HK): Tháng Mười hai ước đạt 1.032 nghìn HK, tăng tăng 7,39% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển đạt 54.295 nghìn HK.Km, tăng 3,33%. Ước thực hiện Quý IV/2024, vận tải HK đạt 2.897 nghìn HK, tăng 4,32% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển đạt 151.397 nghìn HK.Km, tăng 0,88%. Tính chung cả năm 2024, vận tải HK đạt 12.505 nghìn HK, tăng 3,47% so với năm trước; luân chuyển đạt 667.458 nghìn HK.Km, tăng 1,65%.

- Vận tải hàng hóa: Tháng Mười hai ước đạt 1.631 nghìn tấn, tăng 6,67% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển đạt 55.830 nghìn tấn.km, tăng 0,48%. Quý IV/2024 vận tải hàng hóa đạt 4.483 nghìn tấn, tăng 0,64%; luân chuyển đạt 158.296 nghìn tấn.km, giảm 2,86% so với cùng kỳ năm 2024. Tính chung cả năm 2024, vận tải hàng hóa đạt 17.445 nghìn tấn, tăng 11,06%; luân chuyển đạt 623.954 nghìn tấn.km, tăng 6,11% so với năm 2023.

- Doanh thu vận tải: Tổng doanh thu vận tải tháng Mười hai ước đạt 569,63 tỷ đồng, tăng 16,37% so với cùng kỳ 2023. Trong đó, doanh thu vận tải hành khách đạt 198,26 tỷ đồng, tăng 24,58%; doanh thu vân tải hàng hóa đạt 264,21 tỷ đồng, tăng 10,83%; dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 107,16 tỷ đồng, tăng 16,54%. Tổng doanh thu vận tải Quý IV/2024 ước đạt 1.539,61 tỷ đồng, tăng 8,47% so với cùng kỳ 2023. Trong đó, doanh thu vận tải hành khách đạt 539,78 tỷ đồng, tăng 15,61%; doanh thu vân tải hàng hóa đạt 704,71 tỷ đồng, tăng 2,44%; dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 295,11 tỷ đồng, tăng 11,53%. Tính chung cả năm 2024, tổng doanh thu vận tải ước đạt 6.340,18 tỷ đồng, tăng 9,50% so với năm 2023. Trong đó, doanh thu vận tải hành khách đạt 2.515,07 tỷ đồng, tăng 10,15%; doanh thu vận tải hàng hóa đạt 2.734,72 tỷ đồng, tăng 12,69%; dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 1.090,38 tỷ đồng, tăng 0,98%.

9. Một số vấn đề xã hội

9.1. Dân số, lao động việc làm

- Dân số trung bình: Dân số trung bình năm 2024 của của tỉnh là 792.209 người, tăng 1,57% so với năm 2023; trong đó, dân số nam tăng 1,53%, dân số nữ tăng 1,62%; dân số thành thị tăng 1,91%, dân số nông thôn tăng 1,45%; về cơ cấu, dân số nam chiếm 50,99%, nữ chiếm 49,01%, dân số sống ở thành thị chiếm 27,14%, sống ở nông thôn chiếm 72,86%. Mật độ dân số của tỉnh năm 2024 đạt 124 người/km2.

- Lao động: Thị trường lao động, việc làm trên địa bàn tỉnh trong quý IV/2024 tăng đột biến so với quý trước, do quý trước chịu ảnh hưởng nặng nề của hoàn lưu cơn bão số 3 (Yagi). Trong quý, các doanh nghiệp có nhiều đơn hàng mới, mở rộng kinh doanh và nhiều dự án trọng điểm đi vào hoạt động. Thị trường lao động trong quý IV dự báo tăng mạnh so với quý trước nhưng giảm nhẹ so với cùng kỳ; tỉ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động dự báo giảm mạnh so với quý trước và giảm nhẹ với cùng kỳ năm trước.

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên quý IV/2024 ước đạt 395,96 nghìn người, so với quý trước tăng 6,87%, so với cùng kỳ năm trước giảm 0,05%. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của khu vực thành thị trong quý IV/2024 chiếm 26,13%, trong khi đó tỷ lệ này ở nông thôn là 73,87%; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ở khu vực thành thị thấp hơn khu vực nông thôn, điều này cho thấy, người dân tại khu vực nông thôn gia nhập thị trường lao động sớm hơn và rời bỏ thị trường muộn hơn khá nhiều so với khu vực thành thị; đây là đặc điểm điển hình của thị trường lao động tỉnh miền núi với cơ cấu lao động tham gia ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao.

Lao động có việc làm tính đến quý IV năm 2024 ước khoảng 394,61 nghìn người; trong đó: Khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 53,81%, tăng 12,27% so với quý trước và giảm 0,23% so với cùng kỳ năm trước; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 20,94%, so với quý trước tăng 3,77%, so với cùng kỳ năm trước tăng 0,73%; khu vực dịch vụ chiếm 25,25%, so với quý trước tăng 13,99%, so với cùng kỳ tăng 0,13%.

- Giải quyết việc làm: Công tác giải quyết việc làm mới tiếp tục được quan tâm chỉ đạo. Trong năm 2024, đã tổ chức 96 phiên giao dịch việc làm, tuyên truyền chính sách lao động, việc làm cho 19.668 lượt người, tuyên truyền chính sách lao động việc làm cho 20.582 lao động. Trong tháng 12/2024, đã giải quyết việc làm cho 989 lao động; lũy kế năm 2024 tạo việc làm cho 17.035 người, tăng 13,1% so với năm 2023 và đạt 117,5% kế hoạch năm.

9.2. Giáo dục

Năm 2024, tỉnh Lào Cai quan tâm triển khai thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về công tác giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh. Tỉnh đã xây dựng Chương trình công tác năm; kế hoạch hành động triển khai thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ năm 2024 nhằm triển khai, thực hiện Nghị quyết 48-NQ/TU ngày 01/12/2023 của Tỉnh ủy về phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2024. Chỉ đạo thực hiện công tác phòng chống bão số 3 (Yagi); rà soát khắc phục sau bão, tổ chức các hoạt động giáo dục sau bão, huy động các nguồn lực tài trợ, khác phục cho các cơ sở giáo dục bị ảnh hưởng báo số 3 và hoàn lưu sau bão. Phát động phong trào thi đua “Lào Cai chung tay khắc phục hậu quả cơn bão số 3” và khen thưởng cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả cơn bão số 3,...

Tiếp tục chỉ đạo thực hiện quy hoạch mạng lưới trường, lớp giai đoạn 2022-2030, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 106/KH-UBND ngày 16/02/2024 về sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Kế hoạch 336/KH-UBND ngày 06/10/2022 của UBND tỉnh Lào Cai về tiếp tục rà soát, sắp xếp trường, lớp đối với giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên trên địa bàn tỉnh Lào Cai, giai đoạn 2022-2030[1].

Về quy mô: Năm học 2024 - 2025, toàn tỉnh có 594 trường, 8.231 nhóm/lớp với 235.731 học sinh; chia ra: Mầm non 195 trường, 2.323 nhóm/lớp, 55.457 trẻ; Tiểu học 165 trường, 3.319 lớp, 84.486 học sinh; THCS 185 trường, 1.820 lớp, 65.653 học sinh; THPT 39 trường, 635 lớp, 25.770 học sinh; 10 Trung tâm GDNN&GDTX 105 lớp, 4.200 học viên.

Tỷ lệ huy động học sinh ra lớp đạt 100% kế hoạch giao, cụ thể: Huy động trẻ nhà trẻ đạt 34%; huy động trẻ mẫu giáo đạt 98,5% (riêng mẫu giáo 5 tuổi đạt 99,9%); huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99,9%; học sinh hoàn thành chương trình Tiểu học học lên lớp 6 đạt 99,7%; huy động trẻ 6-14 tuổi đạt 99,7%; huy động số học sinh tốt nghiệp THCS vào học lớp 10 các trường THPT đạt 66,81%; học lớp 10 tại các Trung tâm GDNN-GDTX (vừa học nghề vừa học văn hóa) đạt 16.24% (tăng 2,1% học sinh so với năm 2023); học nghề trình độ Trung cấp, sơ cấp đạt 23,53%.

9.3. Văn hóa, thể thao

- Lĩnh vực văn hóa: Năm 2024, các hoạt động phục vụ văn hóa cơ sở tiếp tục được chú trọng triển khai thực hiện. Tính đến thời điểm báo cáo, đã hoàn thành thực hiện tuyên truyền lưu động được 978 buổi, bằng 100,3% kế hoạch. Trong đó, phục vụ vùng sâu vùng xa thực hiện 688 buổi, bằng 100,4% kế hoạch; thực hiện chiếu phim lưu động 100 buổi, bằng 100% kế hoạch; triển khai nghiệp vụ in sao, lồng tiếng các chương trình tiếng dân tộc theo kế hoạch…

- Hoạt động thể thao: Công tác xây dựng và phát triển phong trào thể dục thể thao ở cơ sở tiếp tục được duy trì, tạo nguồn vận động viên cho tuyến tỉnh cũng như bảo tồn, phát triển các môn thể thao dân tộc. Trong năm, hoàn thành tổ chức 25 giải thể thao trong tỉnh, đạt 113,6% kế hoạch; tham gia 41 giải thể thao toàn quốc, đạt 113,8% kế hoạch. Kết quả đạt 202 huy chương các loại (75 HCV, 57 HCB, 70 HCĐ). Công tác xây dựng và phát triển phong trào thể dục thể thao ở cơ sở tiếp tục được duy trì. Tạo nguồn vận động viên cho tuyến tỉnh cũng như bảo tồn, phát triển các môn thể thao dân tộc.

9.4. Y tế - chăm sóc sức khỏe nhân dân

a) Công tác phòng, chống dịch bệnh

- Quản lý chặt chẽ các dịch bệnh nguy hiểm, dịch bệnh lưu hành tại địa phương; phát hiện sớm, khống chế kịp thời, không để lan rộng.

- Công tác tiêm chủng phòng bệnh được triển khai rộng khắp 152 xã, phường, thị trấn. Tổng số trẻ được tiêm chủng đầy đủ 11.532 trẻ, đạt 97,2% kế hoạch; tiêm phòng uốn ván cho phụ nữ có thai 9.721 phụ nữ, đạt 85% kế hoạch; tiêm phòng viêm gan B 24h sau sinh 10.475 người, đạt 97,3%, công tác tiêm chủng an toàn, không có tai biến.

- Công tác an toàn thực phẩm được quan tâm; UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 45/2024/QQĐ-UBND ngày 12/11/2024 ban hành quy định quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Lào Cai. Thành lập 569 Đoàn kiểm tra và thực hiện kiểm tra 7.686 cơ sở thực phẩm, trong đó 7.354 cơ sở đạt yêu cầu chiếm 95,7%, đạt 114% kế hoạch; xử phạt vi phạm 300 cơ sở, tổng số tiền 738,35 triệu đồng; trong năm xảy ra 06 vụ ngộ độc thực phẩm làm 103 người mắc; tử vong: 0 (bình quân 12,9 ca/100.000 dân); các vụ ngộ độc thực phẩm đã được điều tra, xử lí theo quy định.

b) Công tác khám, chữa bệnh

Công tác khám chữa bệnh được duy trì thường xuyên, đảm bảo chế độ thường trực cấp cứu, sẵn sàng tiếp nhận, điều trị bệnh nhân; thực hiện nghiêm các quy định về tinh thần, thái độ, trách nhiệm phục vụ Nhân dân trong các cơ sở khám, chữa bệnh; nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho Nhân dân. Tổng số lượt khám chữa bệnh chung trong năm là 2.124.682 lượt; khám chữa bệnh BHYT là 820.926 lượt, chiếm 38,64%, trong đó khám chữa bệnh người nghèo là 85.963 lượt, Dân tộc thiểu số là 390.930 lượt, trẻ em dưới 6 tuổi là 134.197 lượt. Công suất sử dụng giường bệnh trong năm đạt 99,60% (Tại bệnh viện là 100,11%, tại PKĐKKV là 97,32%).

9.5. Tai nạn giao thông

Trong năm, lực lượng Cảnh sát giao thông, Thanh tra giao thông, Cảnh sát cơ động phối hợp với các ngành, các địa phương huy động lực lượng, phương tiện, triển khai đồng bộ các biện pháp công tác, bố trí lực lượng, tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm an toàn giao thông.

Theo báo cáo của Ban An toàn giao thông tỉnh, tháng 12/2024 xảy ra 34 vụ tai nạn giao thông và va chạm giao thông, làm 4 người chết và 51 người bị thương; so với cùng kỳ năm trước số vụ tăng 2,26 lần, số người chết tăng 33,33%, số người bị thương tăng 2,55 lần. Lũy kế cả năm 2024, xảy ra 228 vụ tai nạn giao thông và va chạm giao thông, làm 70 người chết và 217 người bị thương; so với cùng kỳ năm trước tăng cả 3 tiêu chí, cụ thể: Số vụ tăng 28,81%, số người chết tăng 11,11%, số người bị thương tăng 3,83%.

Lực lượng Công an, Thanh tra giao thông thường xuyên tăng cường tuần tra, kiểm soát, ngăn chặn tình trạng đua xe trái phép, không đội mũ bảo hiểm, xe ô tô chạy quá tốc độ, quá tải, xe khách chở quá số người quy định, kiểm tra nồng độ cồn,... Trong tháng 12/2024, phát hiện lập biên bản xử lý 1.132 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, tạm giữ 565 phương tiện các loại, tước 283 giấy phép lái xe, xử phạt nộp Kho bạc Nhà nước 3 tỷ đồng; luỹ kế năm 2024 phát hiện lập biên bản xử lý 16.167 trường hợp, tạm giữ 7.852 phương tiện, tước 3.886 giấy phép lái xe, xử phạt nộp Kho bạc Nhà nước 40,62 tỷ đồng.

9.6. Thiệt hại do thiên tai

Trong tháng, trên địa bàn tỉnh không xảy ra thiên tai. Lũy kế cả năm 2024, trên địa bàn tỉnh xảy ra 29 đợt thiên tai do mưa bão, giông lốc, rét đậm, rét hại. Thiệt hại do thiên tai gây ra làm 144 người chết, 12 người mất tích, 90 người bị thương; hư hại 9.725 ngôi nhà; nhiều diện tích cây trồng hàng năm, cây ăn quả, cây lâu năm, cây dược liệu… bị thiệt hại, gãy đổ; làm chết nhiều gia súc, gia cầm; một số diện tích nuôi trồng thủy sản bị ảnh hưởng nặng, sản phẩm cá thương phẩm bị chết, lũ cuốn trôi tăng cao; nhiều công trình cơ sở vật chất (trụ sở cơ quan, trường học, trạm y tế, nhà xưởng, thuỷ điện, thuỷ lợi,...) bị hư hại, nhiều tuyến đường Quốc lộ, tỉnh lộ, đường huyện, xã bị sạt lở với khối lượng lớn gây ách tắc giao thông cục bộ,... Giá trị thiệt hại ước tính khoảng 7.217,58 tỷ đồng.

Tóm lại: Năm 2024, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai tuy còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng với quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, kinh tế - xã hội của tỉnh vẫn đạt được một số kết quả tích cực. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tuy gặp những khó khăn về thời tiết những vẫn ổn định; sản xuất công nghiệp vẫn được duy trì và phát triển; hoạt động dịch vụ trên địa bàn tỉnh diễn ra sôi động, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt khá, du lịch phục hồi mạnh mẽ, tiếp tục phát huy vai trò mũi nhọn của nền kinh tế; giải ngân vốn đầu tư công được triển khai quyết liệt, tỉnh Lào Cai luôn nằm trong nhóm những địa phương có tỷ lệ giải ngân cao của cả nước; các chế độ chính sách, an sinh xã hội được thực hiện đầy đủ, kịp thời; quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; hoạt động đối ngoại được đẩy mạnh,...

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, còn một số vướng mắc, khó khăn như: Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hợp tác xã còn gặp khó khăn về tài chính; kinh tế biên mậu không ổn định; một số khó khăn vướng mắc của các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất công nghiệp vẫn chưa được tháo gỡ, các dự án trọng điểm trên địa bàn tỉnh bị chậm tiến độ; các đơn vị sản xuất hóa chất, phân bón thiếu nguồn nguyên liệu quặng apatit; tác động của kinh tế thế giới, xung đột Nga - Ukraine kéo dài gây ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; giá xăng dầu vẫn ở mức cao; giá vật tư, phân bón, thức ăn chăn nuôi, nguyên vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất tăng, thị trường tiêu thụ một số mặt hàng nông sản thiếu ổn định, phụ thuộc rất lớn vào thị trường Trung Quốc (chuối, dứa,...); thiên tai, thời tiết diễn biến phức tạp, cực đoan, đặc biệt là cơn bão số 3 (Yagi),… đã ảnh hưởng lớn tới cuộc sống sinh hoạt và sản xuất của người dân và doanh nghiệp.

Năm 2025, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tăng tốc, bứt phá, về đích, là năm cuối thực hiện mục tiêu của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XVI và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025; chuẩn bị, củng cố các yếu tố nền tảng, làm tiền đề để Lào Cai tự tin cùng với cả nước bước vào kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc. Để thực hiện đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 (nhất là chỉ tiêu tăng trưởng GRDP) và kế hoạch 5 năm 2021-2025, tạo tiền đề hướng đến tăng trưởng kinh tế hai con số trong giai đoạn 2026 – 2030, đòi hỏi các cấp, các ngành cần tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm và có những giải pháp tích cực, trong đó tập trung vào các nhóm giải pháp chính như:

1. Thực hiện triển khai có hiệu quả Công điện số 137/CĐ-TTg ngày 20/12/2024 của Thủ tướng Chính phủ về việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm 2025; công điện số 140/CĐ-TTg ngày 27/12/2024 về việc  phấn  đấu  tăng  trưởng  kinh  tế  hai con số năm 2025. Tập trung hỗ trợ khôi phục sản xuất, thực hiện đồng bộ, linh hoạt các chính sách, giải pháp để kích thích sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế tỉnh Lào Cai năm 2025 đạt kế hoạch đề ra.

2. Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 10-NQ/TU, ngày 26/8/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về chiến lược phát triển nông nghiệp hàng hóa tỉnh Lào Cai đên năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp cơ cấu lại nội ngành nông, lâm nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới và sắp xếp dân cư nông thôn.

3. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Kế hoạch số 157-KH/TU ngày 24/7/2018 của Tỉnh ủy Lào Cai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó, tập trung chỉ đạo phát triển chế biến sâu các sản phẩm từ kim loại đồng, thép, hóa chất cơ bản; ưu tiên, hỗ trợ phát triển công nghiệp hỗ trợ; công nghiệp chế biến nông lâm sản, dược liệu, sản xuất sản phẩm phục vụ khách du lịch. Đẩy mạnh các hoạt động ứng dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất kinh doanh.

4. Tập trung giải quyết khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp lĩnh vực ngành công nghiệp, đặc biệt là vấn đề giải phóng mặt bằng, môi trường, thủy điện, nguyên liệu phục vụ sản xuất công nghiệp. Đôn đốc đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án, công trình trọng điểm: Dự án Khai thác - chế biến Graphít Nậm Thi; Dự án Khai thác - chế biến Graphít Bảo Hà; Dự án Trung tâm nghiên cứu, sản xuất giống và chế biến dược liệu Vitamec Lào Cai; Dự án chế biến rác thải rắn tập trung; Dự án xây dựng Cảng Hàng không Sa Pa,...

5. Tăng cường quản lý thu, chống thất thu, buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế, xử lý nợ đọng thuế; thường xuyên rà soát, nắm chắc các nguồn thu, đối tượng thu nộp ngân sách trên địa bàn quản lý; triển khai quyết liệt các biện pháp chống chuyển giá, trốn thuế; kiểm tra, kiểm soát việc kê khai thuế, quyết toán thuế của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân để thu đúng, thu đủ, thu kịp thời vào ngân sách nhà nước.

6. Thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; công tác trợ giúp đột xuất, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời, khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống./.

Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập