Báo cáo phân tích tình hình kinh tế - xã hội tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2022

1. Tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh Lào Cai sơ bộ quý I năm 2022 tăng 5,08% so với cùng kỳ năm 2021, ước tính quý II tăng 9,18%; tính chung 6 tháng đầu năm 2022 ước tính tăng 7,14% so với cùng kỳ năm 2021, thấp hơn mức tăng 7,56% của 6 tháng đầu năm 2021, (Theo số liệu ước tính được Tổng cục Thống kê công bố tại Văn bản số 753/TCTK-TKQG ngày 30/5/2022).

TỐC ĐỘ PHÁT TRIỂN TỔNG SẢN PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN

Sơ bộ quý I, ước tính quý II và 6 tháng đầu năm 2022

Đơn vị tính: %

Quí I
năm 2022
 (sơ bộ)

 

Quí II
 năm 2022
(ước tính)

6 tháng đầu năm 2022
(ước tính)

Tổng số

105,08

109,18

107,14

Nông, lâm nghiệp và thủy sản

102,75

103,56

103,24

Công nghiệp và xây dựng

103,52

108,16

105,63

Dịch vụ

106,16

112,33

109,27

Thuế sản phẩm trừ trợ cấp SP

111,07

110,69

110,87

Quý I năm 2022, do chịu ảnh hưởng từ dịch Covid-19 do vậy tốc độ tăng GRDP của các khu vực so với cùng kỳ năm 2021 đạt thấp: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,75%; công nghiệp và xây dựng chỉ tăng 3,52% và dịch vụ tăng 6,16%. Bước sang quý II, tỉnh Lào Cai cơ bản khống chế được dịch bệnh và kinh tế bắt đầu được phục hồi, tăng trưởng khởi sắc, nhiều hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch sôi động trở lại. Kết quả, khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,56%; công nghiệp và xây dựng tăng 8,16% và dịch vụ tăng 12,33% đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng chung của 6 tháng đầu năm 2022 đạt mức 7,14%, xếp thứ 8/14 tỉnh khu vực Trung du và Miền núi phía bắc, xếp thứ 29/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,24%, đóng góp 0,48 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,63%, đóng góp 2,14 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 9,27%, đóng góp 3,56 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 10,87%, đóng góp 0,96 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung.

              Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: Sáu tháng đầu năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chịu ảnh hưởng của giá vật tư nông nghiệp tăng cao, một số mặt hàng nông sản gặp nhiều khó khăn về thị trường tiêu thụ; giá thức ăn chăn nuôi, thức ăn thủy sản liên tục tăng cao, nguyên liệu đầu vào và cước vận chuyển tăng trong khi giá bán sản phẩm chăn nuôi thấp và không ổn định đã ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch phát triển sản xuất của người chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản,... Tốc độ tăng trưởng đạt 3,24%; trong đó, ngành nông nghiệp tăng 1,93%, ngành lâm nghiệp tăng 10,16%, ngành thủy sản tăng 7,36% so với cùng kỳ năm trước.

Khu vực công nghiệp và xây dựng: Ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2022 tăng 6,47% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 1,93 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo duy trì tốt, tiếp tục đóng vai trò động lực dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng 13,07%, đóng góp 1,37 điểm phần trăm; ngành khai khoáng tiếp tục gặp khó khăn do dịch covid-19 và ảnh hưởng giá nguyên, nhiên vật liệu đầu vào tăng cao (giá xăng, dầu tăng cao trong thời gian vừa qua),... đặc biệt là sản lượng quặng Apatít giảm sâu, ước đạt 60,24% so với cùng kỳ năm trước, đã ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng của toàn ngành khai khoáng, vì vậy ngành khai khoáng 6 tháng chỉ đạt 88,64% so với cùng kỳ, làm giảm 3,57 điểm phần trăm tăng trưởng của ngành công nghiệp và giảm 1,06 điểm phần trăm vào mức tăng chung của toàn ngành kinh tế; ngành Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 16,79%, đóng góp 1,60 điểm phần trăm. Ngành xây dựng tăng 2,56%, đóng góp 0,21 điểm phần trăm vào mức tăng chung.

Khu vực dịch vụ: 6 tháng đầu năm 2022 tăng trưởng khởi sắc và phục hồi mạnh mẽ khi nhiều hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch sôi động trở lại, đặc biệt là hoạt động cáp treo Fansipan hoạt động trở lại thu hút lượng khách lớn… Tăng trưởng khu vực dịch vụ 6 tháng đầu năm đạt 9,27%, đóng góp 3,56 điểm phần trăm vào mức tăng chung. Hầu hết các ngành dịch vụ đều tăng cao so với cùng kỳ năm trước; cụ thể một số ngành dịch vụ có tỷ trọng lớn đóng góp vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của 6 tháng đầu năm nay như sau: Ngành bán buôn, bán lẻ tăng 10,50% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,62 điểm phần trăm; vận tải, kho bãi tăng 10,31%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 33,13%, đóng góp 0,66 điểm phần trăm; thông tin và truyền thông tăng 5,82%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,18%, đóng góp 0,27 điểm phần trăm; hoạt động giáo dục và đào tạo tăng 6,05%, đóng góp 0,35 điểm phần trăm...

Về cơ cấu nền kinh tế: Cơ cấu kinh tế khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 13,72%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 40,66%; khu vực dịch vụ chiếm 36,53%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,09% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2021 là 15,33%; 40,11%; 35,81% và 8,75%).

2. Tài chính, tín dụng

2.1. Tài chính: Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2022 đảm bảo tiến độ dự toán và tăng so với cùng kỳ. Tổng thu ngân sách Nhà nước đến thời điểm 20/6/2022 ước đạt 4.248,31 tỷ đồng, bằng 44,75% dự toán năm. Ước thực hiện đến 30/6/2022 đạt 4.800 tỷ đồng, bằng 50,5% dự toán HĐND tỉnh giao và tăng 17,93% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó: Thu nội địa ước đạt 4.020 tỷ đồng, bằng 52,2% dự toán tỉnh giao, tăng 28,13% so với cùng kỳ năm trước, gồm: Thu từ thuế, phí và thu khác ước đạt 2.800 tỷ đồng, bằng 52,2% dự toán tỉnh giao, tăng 26,4% so với cùng kỳ năm trước; thu từ tiền sử dụng đất ước đạt 1.284 tỷ đồng, bằng 61% dự toán tỉnh giao, tăng 33,17% so với cùng kỳ năm trước; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu ước đạt 780 tỷ đồng, bằng 43,3% dự toán tỉnh giao, tăng 14,08% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 20/6/2022 ước tính đạt 7.682,88 tỷ đồng, bằng 53,52% dự toán năm và tăng 6,80% so với cùng kỳ. Trong đó, chi thường xuyên đạt 4.018,78 tỷ đồng, bằng 54,09% tăng 4,73%; chi đầu tư phát triển 3.660,47 tỷ đồng, tăng 47,75% và tăng 9,11%; chi trả nợ lãi 1,67 tỷ đồng, bằng 45,71% và tăng 119,54%.

2.2. Tín dụng: Hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng trong 6 tháng đầu năm 2022, các Ngân hàng, Quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn tỉnh đã tập trung triển khai kịp thời các văn bản chỉ đạo về phát triển kinh tế - xã hội và bám sát chỉ đạo của NHNNVN thực hiện nghiêm các quy định về lãi suất huy động và cho vay theo quy định của NHNN VN, vì vậy hoạt động các tín dụng trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2022 tiếp tục ổn định.

Tổng nguồn vốn tín dụng đến 30/6/2022 ước đạt 57.500 tỷ đồng, tăng 2,58% so với 31/12/2021; trong đó, nguồn vốn huy động trên địa bàn đạt 39.700 tỷ đồng, tăng 11,5% so với 31/12/2021.

Doanh số cho vay 6 tháng đầu năm ước đạt 41.000 tỷ đồng, tăng 9% so với cùng kỳ năm 2021. Dư nợ đến 30/6/2022 ước đạt 49.900 tỷ đồng, giảm 3,74% so với 31/12/2021, nguyên nhân giảm do trong Quý I có 01 dự án lớn được 01 ngân hàng thương mại trên địa bàn Lào Cai cho vay đã trả hết dư nợ 3.636 tỷ đồng, kéo dư nợ toàn địa bàn 6 tháng đầu năm tăng trưởng -3,74% so với cuối năm 2021. Chất lượng tín dụng, không tính nợ theo dõi chuyển về nhóm 2, tỷ lệ nợ xấu là 0,95%.

3. Chỉ số giá

Dịch Covid-19 về cơ bản được kiểm soát, hoạt động sản xuất kinh doanh đã trở lại trạng thái bình thường, với nguồn cung dồi dào, đảm bảo về sản lượng và giá cả, thị trường hàng hóa trên địa bàn tỉnh Lào Cai đáp ứng tốt nhu cầu của người dân trong các dịp Lễ, Tết cũng như hoạt động thường nhật, không bị thiếu hàng, sốt giá.

3.1. Chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Sáu tăng 0,29% so tháng trước và tăng 3,04% so với cùng tháng năm trước. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính của tháng Sáu, có 3 nhóm tăng giá, 3 nhóm giảm giá và 5 nhóm giữ giá ổn định so với tháng trước.

- Nhóm có chỉ số ổn định: Nhóm đồ uống và thuốc lá; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép; nhóm thuốc bị và đồ dùng gia đình; nhóm giáo dục; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch (CPI=100).

- Các nhóm có chỉ số tăng: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,32%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,14%; nhóm giao thông tăng 2,22%.

- Nhóm có chỉ số giảm: Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD giảm 0,31%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,09%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,02%.

CPI bình quân 6 tháng đầu năm 2022 tăng 1,81% so với bình quân cùng kỳ năm 2021. Các yếu tố chính làm tăng CPI trong 6 tháng đầu năm 2022: (1) Nhu cầu tăng mạnh làm giá lương thực, thực phẩm, đặc biệt là các mặt hàng thịt lợn, thịt bò, gia cầm, rau quả tươi tăng cao vào những ngày trước và trong dịp Tết Nguyên đán. Dịch Covid-19 được kiểm soát, các hoạt động Lễ hội, cưới hỏi, ăn uống ngoài gia đình diễn ra bình thường sau khoảng thời gian bị hạn chế cũng là nguyên nhân làm mức tiêu thụ thực phẩm tăng cao, góp phần trong mức tăng chung của chỉ số CPI; (2) Giá đồ uống và thuốc lá tăng 2,01%; (3) Giá nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 4,10%; (4) Giá các đồ dùng thiết yếu như tủ lạnh, máy giặt, máy hút bụi tăng do, chi phí nguyên vật liệu sản xuất, xăng dầu tăng nên cơ sở tăng giá bán,...; các yếu tố này tác động làm chỉ số giá nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,67%; (5) Giá một số mặt hàng thuốc tăng do người dân sử dụng trong phòng và điều trị Covid-19, làm chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,02%; (6) Giá xăng, dầu tăng do Bộ Công Thương điều chỉnh theo giá xăng, dầu thế giới, góp phần làm chỉ số nhóm giao thông 6 tháng đầu năm tăng 12,60%; (7) Chỉ số giá nhóm giáo dục tăng 0,32%; (8) Hoạt động du lịch khởi sắc trở lại sau khi dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát, giá các gói dịch vụ du lịch tăng, làm chỉ số giá nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,10%; (9) Giá mặt hàng đồ trang sức tăng do ảnh hưởng của giá vàng tăng, làm cho nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,66%.

Bên cạnh các nguyên nhân làm tăng CPI, có các yếu tố góp phần làm giảm CPI trong 6 tháng đầu năm 2022 so với cùng kỳ năm trước như: (1) Giá một số mặt hàng thực phẩm giảm do, nhu cầu tiêu thụ của người dân tăng cao; nguồn cung các mặt hàng rau củ quả tăng khi vào vụ thu hoạch, hoạt động nhập khẩu hàng từ Trung Quốc tăng trở lại trong trạng thái bình thường mới của dịch Covid-19, góp phần làm chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,20%; (2) Giá các mặt hàng quần áo may sẵn và giày dép giảm do, nhu cầu mua sắm của người dân không nhiều, các cơ sở kinh doanh giảm giá bán để thúc đẩy tiêu thụ, tác động làm chỉ số nhóm may mặc, mũ nón, giày dép giảm 0,45%; (3) Giá mặt hàng điện thoại di động giảm do, cơ sở kinh doanh tổ chức các chương trình khuyến mại để tăng doanh số, tác động làm chỉ số chung của nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,17%.

3.2. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ

Giá vàng bình quân tháng Sáu là 5.420.499 đồng/chỉ (giảm 0,88%); giá đô la Mỹ bình quân là 23.316 đồng/1 USD (tăng 0,99%) do ảnh hưởng của thị trường trong nước và thế giới.

4. Đầu tư và xây dựng

4.1. Đầu tư phát triển

Tổng vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn theo giá hiện hành, dự ước 6 tháng đầu năm 2022 đạt 9.647,68 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm 2021 tăng 2,73%; trong đó, vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước đạt 2.386,02 tỷ đồng, chiếm 24,73% tổng vốn và bằng 90,42% so với cùng kỳ; khu vực ngoài Nhà nước đạt 5.768,76 tỷ đồng, chiếm 59,79% và tăng 20,28%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 499,58 tỷ đồng, chiếm 5,17% và tăng gấp 1,6 lần so với cùng kỳ năm 2021.

Tổng kế hoạch vốn đầu tư công năm 2022 đã giao là 4.748 tỷ đồng; giá trị giải ngân đến 30/6/2022 ước đạt 2.094 tỷ đồng, bằng 44% kế hoạch.

Về tình hình thu hút, đầu tư: Lũy kế đến thời điểm hiện tại, tỉnh Lào Cai có 29 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 688,06 triệu USD. Trong 6 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn tỉnh Lào Cai không có Dự án FDI cấp mới.

4.2. Hoạt động xây dựng

Công tác quy hoạch xây dựng được đẩy mạnh về tiến độ và chất lượng thực hiện các quy hoạch trọng điểm như: Quy hoạch chung xây dựng Khu đô thị du lịch Sa Pa, Quy hoạch phân khu Khu du lịch Y Tý, Quy hoạch chung hai bên dọc sông Hồng, Sáu tháng đầu năm, một số công trình và hạng mục công trình chuyển tiếp đã hoàn thành như: Khu nhà ở tái định cư phường Bắc Lệnh; Dự án phát triển các đô thị loại vừa; Kè bảo vệ bờ sông biên giới khu vực mốc 104(2) + 500 đến mốc 104 + 3800 m phường Lào Cai, thành phố Lào Cai,… ngoài ra các công trình do các đơn vị ở Trung ương đầu tư trên địa bàn tỉnh Lào Cai cũng đang được đẩy nhanh tiến độ thi công như: Đường nối cao tốc Nội Bài – Lào Cai đến Sa Pa; Cảng hành không Sa Pa,... bên cạnh đó dịch Covid 19 đến nay đã được khắc phục trên diện rộng nên các đơn vị tập trung thi công một số công trình mới cũng như các công trình chuyển tiếp từ năm trước sang như: Nút giao Phố Lu kết nối tỉnh lộ 152 với cao tốc Nội Bài - Lào Cai với tổng mức đầu tư 150 tỷ đồng bằng nguồn ngân sách của tỉnh; Đường nối cao tốc Nội Bài - Lào Cai đến thị xã Sa Pa; Dự án khu nhà ở thương mại và các công trình hỗn hợp - dịch vụ, khu đô thị mới Lào Cai - Cam Đường đã được khởi công xây với tổng mức đầu tư hơn 4.000 tỷ đồng; Trường Quốc tế Canada - Lào Cai với tổng vốn đầu tư 420 tỷ đồng,…

5. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

              5.1. Sản xuất nông nghiệp

              a) Trồng trọt

Cây lúa: Diện tích lúa vụ xuân toàn tỉnh ước tính đạt 9.902,27 ha, bằng 98,28% so với cùng kỳ năm 2021, giảm do một số diện tích bị thu hồi để phục vụ các công trình xây dựng và làm đường giao thông; một số diện tích không hiệu quả được chuyển đổi sang trồng rau màu và các loại cây trồng khác. Hiện nay, lúa trà sớm đang thu hoạch; trà muộn đang ngậm sữa - chắc xanh. Tính đến ngày 15/6/2022, diện tích lúa đã thu hoạch được 7.266 ha, đạt 73,38% diện tích gieo trồng. Dự ước năng suất lúa đạt 61,32 tạ/ha, tăng 0,15 tạ/ha so với cùng kỳ; sản lượng lúa vụ xuân ước đạt 60,72 nghìn tấn, so với cùng kỳ năm 2021 bằng 98,53%, chủ yếu là do diện tích gieo cấy giảm. Vụ xuân năm 2022, do thời tiết nóng ẩm kéo dài nên tình hình sâu bệnh vẫn xảy ra rải rác trên cây lúa với diện tích bị nhiễm bệnh là 1.069 ha. Chủ yếu là Bệnh đạo ôn; Bệnh bạc lá - sọc vi khuẩn; Bệnh rầy nâu- rầy lưng trắng; Bệnh khô vằn; Bệnh nghẹt rễ - vàng lá; Bệnh đen hạt lép; Ốc bươu vàng,... diện tích bị nhiễm đã được hướng dẫn phòng trừ kịp thời, không để lây lan trên diện rộng.

Cây ngô: Diện tích gieo trồng ngô vụ đông xuân đạt 12.305,56 ha, bằng 97,42% so với cùng kỳ năm trước. Thời điểm này, ngô xuân trà sớm đã cho thu hoạch, trà muộn đang trỗ cờ, phun râu. Tính đến ngày 15/6/2022, diện tích ngô xuân đã thu hoạch là 860 ha; dự tính sản lượng đạt 53,55 nghìn tấn, bằng 99,93% so với cùng kỳ; năng suất ước đạt 43,52 tạ/ha, so với cùng kỳ tăng 1,09 tạ/ha, năng suất ngô tăng là do trong giai đoạn gieo trồng và sinh trưởng của cây ngô, nhất là giai đoạn trỗ cờ, phun râu thời tiết thuận lợi đã tạo điều kiện cho cây ngô phát triển tốt.

Tổng sản lượng lương thực có hạt toàn tỉnh vụ đông xuân 2022 ước đạt 114,27 nghìn tấn, so với cùng kỳ bằng 99,18%. Trong đó, sản lượng thóc ước đạt 60,72 nghìn tấn; sản lượng ngô ước đạt 53,55 nghìn tấn.

Cây khoai lang: Diện tích gieo trồng cây khoai lang đạt 438,2 ha, bằng 58,91% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng ước đạt 3.268,3 tấn, bằng 59,24% so với cùng kỳ năm 2021; nguyên nhân diện tích khoai lang giảm do do dịch bệnh covid, sản phẩm đầu ra không tiêu thụ được nên người dân giảm diện tích.

Cây rau, đậu, hoa các loại: Tổng diện tích gieo trồng sơ bộ đạt 7.949,92 ha, giảm 22,36% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng rau các loại ước đạt 103.807 tấn, giảm 19,63%.

Cùng với việc thu hoạch cây trồng vụ đông xuân, các địa phương trong tỉnh tiến hành làm đất gieo trồng cây vụ mùa. Diện tích gieo cấy lúa (lúa 1 vụ vùng cao) lũy kế được 6.241 ha, tăng 3,74% so với cùng kỳ và đang sinh trưởng và phát triển tốt, trà sớm đẻ nhánh - đẻ nhánh rộ; trà sau đang hồi xanh. Cây ngô mùa sớm ở vùng cao đến nay đã trồng được 14.370 ha, tăng 1,23% so với cùng kỳ; trà sớm đang trong giai đoạn trỗ cờ, phát triển bắp; trà sau đang xoáy nõn, trỗ cờ.

Sản lượng một số cây lâu năm, cây ăn quả: Theo số liệu sơ bộ, sản lượng chè búp tươi sơ bộ đạt 19.668,43 tấn, tăng 4,67% so với cùng kỳ; sản lượng dứa đạt 31.480 tấn, tăng 38,37%; sản lượng chuối thu hoạch đạt 40.970 tấn, tăng 14,43%. Chuối và dứa là hai loại cây trọng điểm chủ lực của tỉnh theo Nghị Quyết 10-NQ/TU ngày 26/8/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về Chiến lược phát triển nông nghiệp hàng hóa tỉnh Lào Cai đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

b) Chăn nuôi

Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh phát triển ổn định; các sản phẩm chăn nuôi (thịt, cá, trứng,...) đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của Nhân dân. Công tác phòng chống dịch bệnh trên đàn vật nuôi được triển khai quyết liệt, dịch bệnh được khống chế kịp thời, không để bùng phát dịch. Trong tháng triển khai tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm được 57.200 liều vắc xin các loại, lũy kế 1.517.000 liều, đạt 102% kế hoạch kỳ I, đạt 50% kế hoạch năm; cấp 7.900 lít hóa chất, 150 kg Choloramin phục vụ công tác vệ sinh tiêu độc khử trùng, phòng chống dịch bệnh trên toàn tỉnh.

5.2. Lâm nghiệp

Lâm nghiệp đã thực sự khởi sắc, nhiều hộ gia đình đã có thu nhập bền vững từ rừng, đã tạo thành vùng hàng hóa tập trung như: Quế, Trẩu, Bồ Đề, Mỡ, Keo, Thông...; đã hình thành các sản phẩm Lâm nghiệp có giá trị kinh tế cao như ván dán, ván ghép thanh, viên nén mùn cưa,... ngoài ra, còn có nhiều lâm sản ngoài gỗ khác như tinh dầu quế, quế thanh, quế ống điếu, nhựa cánh kiến trắng,...

Trồng và chăm sóc rừng: Diện tích rừng trồng mới ước 6 tháng đầu năm 2022 toàn tỉnh trồng được 4.938,32 ha, so với cùng kỳ năm trước tăng 12,6%; trong đó, rừng sản xuất ước tính đạt 4.750,32 ha, chiếm 96,19% trong tổng diện tích trồng mới, so với cùng kỳ năm trước tăng 13,16%; rừng phòng hộ ước đạt 188 ha, chiếm 3,81% và tăng 0,12%.

Khai thác lâm sản: Ước tính 6 tháng đầu năm 2022, khai thác gỗ đạt 90.377 m3, so với cùng kỳ năm trước tăng 4,87%, khai thác chủ yếu từ diện tích rừng do hộ gia đình quản lý, nguyên liệu gỗ khai thác phục vụ nhu cầu của các xưởng ván bóc, ghép thanh; khai thác củi ước đạt 221.179 ste, so với cùng kỳ năm trước tăng 1,88%.

Quản lý bảo vệ rừng: Tăng cường kiểm tra bám sát cơ sở, hướng dẫn người dân canh tác nương rẫy an toàn; tổ chức các buổi tuyên truyền lưu động đặc biệt trong những ngày nắng nóng khô hanh kéo dài; từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh không xảy ra cháy rừng. 6 tháng đầu năm phát hiện 18 vụ phá rừng; lấn chiếm rừng trái phép 6 vụ; vận chuyển lâm sản trái pháp luật 19 vụ; khai thác rừng trái phép 12 vụ; tàng trữ, mua bán, chế biến gỗ và lâm sản 12 cá nhân; vi phạm khác 10 vụ. Diện tích rừng bị thiệt hại: Không

5.3. Thuỷ sản

Diện tích nuôi trồng thủy sản được duy trì và ổn định, các địa phương trong tỉnh đang tập trung thu hoạch và chăm sóc đàn cá; tập trung chỉ đạo sản xuất theo kế hoạch, tăng cường công tác quản lý giống thuỷ sản trên địa bàn; hướng dẫn nhân dân tu sửa, nạo vét ao, khử trùng đảm bảo các yêu cầu vệ sinh cho việc nuôi thả mới.

Sơ bộ 6 tháng đầu năm 2022, sản lượng thuỷ sản đạt 4.722,72 tấn, so với cùng kỳ năm trước tăng 7,01%. Trong đó: Sản lượng khai thác đạt 14,07 tấn, so với cùng kỳ năm trước giảm 8,04%; sản lượng nuôi trồng đạt 4.708,65 tấn, tăng 7,06%; Giống thuỷ sản nội địa ước đạt 15,98 triệu con, so với cùng kỳ năm trước tăng 3,63%.

6. Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất công nghiệp: Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh tháng 6 năm 2022 tăng 5,76% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, ngành công nghiệp khai khoáng tăng cao nhất với mức 14,21%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 12,46%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 12,81%; riêng ngành chế biến, chế tạo giảm 4,95%, nguyên nhân do một số doanh nghiệp không nhập được nguyên liệu đầu vào để sản xuất (than cốc).

Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng 6,64% so với cùng kỳ năm trước. Trong các ngành công nghiệp, ngành công nghiệp khai khoáng giảm 8,31%, làm giảm 2,86 điểm phần trăm trong mức tăng chung của toàn ngành công nghiệp; ngành sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,13%, đóng góp 4,27 điểm phần trăm; ngành điện và phân phối điện tăng 18,62%, đóng góp 5,1 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,38%, đóng góp 0,13 điểm phần trăm.

Trong các ngành sản xuất công nghiệp của tỉnh, một số ngành có chỉ số sản xuất 6 tháng đầu năm 2022 tăng so với cùng kỳ năm 2021 như: Ngành công nghiệp khai thác quặng kim loại tăng 18,66%; trong đó, khai thác quặng sắt tăng 38,81%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 11,64%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 27,93%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 78,63%; sản xuất kim loại tăng 18,14%, tăng do Chi nhánh luyện đồng Lào Cai mở rộng quy mô sản xuất, tăng công suất từ 10.000 tấn/năm lên 30.000 tấn/năm, đây là yếu tố chủ yếu làm cho ngành sản xuất kim loại có tỷ lệ tăng cao hơn so với các ngành công nghiệp chế biến khác; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 13,71%; sản xuất và phân phối điện tăng 18,62%,... Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số giảm so với cùng kỳ năm trước như: Ngành khai khoáng khác giảm 36,09%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 7,23%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 27,5%, giảm chủ yếu ở các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng từ đất sét giảm 17,19%, sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng và thạch cao giảm 23,56%, đặc biệt do ngành sản xuất sản phẩm xi măng giảm 100%, do Công ty Cổ phần tập đoàn Nam Tiến Lào Cai ngừng hoạt động,...

Sản phẩm công nghiệp chủ yếu: 6 tháng đầu năm 2022 một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng so với cùng kỳ như: Quặng sắt tăng 38,81%; quặng đồng và tinh quặng đồng tăng 14,93%; dứa đóng hộp tăng 606 tấn; sản phẩm ván ép từ gỗ tăng 45,04%; phốt pho vàng tăng 21,8%; sản phẩm axit sunfuric tăng 7,88%; sản phẩm axit photphoric tăng 26,42%; sản phẩm photphat (DCP) tăng 22,65%; phân lân nung chảy tăng 62,23%; dược phẩm khác tăng 78,63%; đồng ka tốt tăng 133,73%; cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép tăng 50,28%; thùng, bể chứa và các vật bằng sắt thép có dung tích >300 lít tăng 9,3%; điện sản xuất tăng 22,66%; điện thương phẩm tăng 6,63%; nước uống được tăng 2,26%. Một số sản phẩm công nghiệp giảm so với cùng kỳ năm trước như: Quặng Apatit giảm 36,81%; bia hơi giảm 48,21%; tinh bột sắn giảm 46,05%; sản phẩm nước tinh khiết giảm 48.21%; gỗ cưa hoặc xẻ giảm 90,67%; sản phẩm gỗ lạng hoặc bóc giảm 100%; sản phẩm gỗ cốp pha giảm 66,63%; dịch vụ phụ thuộc liên quan đến in giảm 7,16%; phân lân P2O5% giảm 25,74%; phân bón DAP giảm 36,94%; gạch xây dựng giảm 17,19%; bê tông tươi giảm 38,01%; xi măng giảm 100%; phôi thép giảm 47,12%; sản phẩm bi, bánh răng, hộp số, các bộ phận điều khiển và chuyển động giảm 4,95%.

Chỉ số tiêu thụ sản phẩm: Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tháng 6/2022 so với tháng trước bằng 80,87%; so với cùng kỳ năm trước bằng 58,5%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số tiêu thụ ngành chế biến, chế tạo bằng 85,73% so với cùng kỳ năm trước, nguyên nhân chủ yếu do trong kỳ vẫn ảnh hưởng của dịch Covid-19 và một số doanh nghiệp tập trung sửa chữa, bảo dưỡng máy móc, thiết bị,... vì vậy một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm đã ảnh hưởng đến chỉ số tiêu thụ chung toàn ngành như: Chế biến thực phẩm giảm 17,35%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa giảm 86,7%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 68,19%; sản xuất sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 16,49%; sản xuất kim loại giảm 7,86%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 14,28%. Duy nhất có 01 ngành có chỉ số tiêu thụ 6 tháng đầu năm 2022 tăng so với cùng kỳ đó là sản xuất từ kim loại đúc sẵn tăng 9,36%, do doanh nghiệp này đã tập trung vào khâu tiêu thụ hàng tồn kho, nhập nguyên vật liệu đầu vào và tìm đầu ra cho tiêu thụ sản phẩm được tốt hơn.

Chỉ số tồn kho: Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/6/2022 dự ước tăng 252,86% so với cùng thời điểm năm 2021; trong đó, một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 111,98%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 2,12 lần; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 5,9 lần; sản xuất kim loại tăng 3,64 lần; sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 6,28%. Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân 6 tháng đầu năm 2022 là 61,2%; các ngành có tỷ lệ tồn kho cao gồm: Ngành sản xuất chế biến thực phẩm 219,45%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ 126,13%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu 294,29%,...

7. Thương mại, dịch vụ

7.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 6/2022 ước tính đạt 1.733,85 tỷ đồng, tăng 2,15% so với tháng trước và tăng tới 48,12% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 1.253,99 tỷ đồng, tăng 37,34% so cùng kỳ; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 295,67 tỷ đồng, tăng 159,91%; doanh thu dịch vụ khác đạt 182,23 tỷ đồng, tăng 28,36% so với cùng kỳ...

Tính chung 6 tháng năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 9.966,55 tỷ đồng, tăng 22,49% so với cùng kỳ năm trước. Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 6 tháng năm nay ước tính đạt 7.252,44 tỷ đồng, chiếm 72,77% tổng mức và tăng 21,60% so với cùng kỳ năm trước; Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước tính đạt 1.693 tỷ đồng, chiếm 16,99% tổng mức và tăng 35,10%; Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 1.011,12 tỷ đồng, chiếm 10,14% tổng mức và tăng 11,60% so với cùng kỳ năm 2021.

Do thực hiện tốt việc “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19” theo tinh thần Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ; ngay từ những ngày đầu năm tỉnh Lào Cai đã đón du khách đến tham quan, đặc biệt khu lịch Sa Pa cáp treo Fansipan đây là điểm khởi đầu cho việc phục hồi về du lịch, cùng với phương án mở cửa lại hoạt động du lịch trong điều kiện bình thường mới các đơn vị kinh doanh trên địa bàn tỉnh đã xây dựng kế hoạch chuỗi sự kiện, tích cực thực hiện nhiều biện pháp kích cầu, tăng cường quảng bá, nâng cao chất lượng dịch vụ. Trong thời gian qua có nhiều Lễ hội được tổ chức sôi động như: Lễ hội đường phố Sa Pa, Lễ hội hoa hồng Fansipan 2022 ga cáp treo, Lễ hội tình yêu và hoa hồng tại thị trấn Bắc Hà, Lễ hội “Festival Cao nguyên trắng Bắc Hà” mùa hè với chủ đề “Giải đua Vó ngựa Cao nguyên trắng lần thứ 15”, Tuần văn hóa Du lịch Bảo Yên, ... nên thu hút nhiều du khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan, du lịch. Lượt khách do cơ sở lưu trú và đơn vị lữ hành phục vụ 6 tháng ước đạt 918.965 lượt khách, so với cùng kỳ năm trước tăng 33,84%.

              7.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Tổng giá trị xuất, nhập khẩu, mua bán, trao đổi hàng hoá qua các cửa khẩu trong tháng 6 năm 2022 ước đạt 209,62 triệu USD, tăng 2,05% so với tháng trước và giảm 32,06% so với cùng kỳ năm 2021; ước 6 tháng đầu năm 2022 đạt 1.037,93 triệu USD, giảm 48,31% so với cùng kỳ và đạt 23,59% so với kế hoạch giao. Trong đó, giá trị xuất khẩu tháng 6 ước đạt 80,17 triệu USD, tăng 2,79% so với tháng trước và giảm 49,19% so với cùng kỳ; ước 6 tháng đầu năm đạt 498,16 triệu USD, giảm 42,35% so với cùng kỳ. Giá trị nhập khẩu tháng 6 ước đạt 66,15 triệu USD, tăng 1,78% so với tháng trước và tăng 9,18% so với cùng kỳ; ước 6 tháng đầu năm đạt 271,27 triệu USD, giảm 15,18% so với cùng kỳ năm trước. Các loại hình (TNTX, KNQ, chuyển CK, Quá cảnh, Doanh nghiệp trong tỉnh thực hiện XNK tại các cửa khẩu khác) tháng 6 ước đạt 63,30 triệu USD tăng 1,40% so với tháng trước, giảm 44,64% so với cùng kỳ; ước 6 tháng đầu năm đạt 268,50 triệu USD, giảm 67,41% so với cùng kỳ năm trước.

7.3. Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách (HK): Tháng Sáu, vận tải hành khách ước tính đạt 629 nghìn HK, tăng 72,98%; luân chuyển đạt 28.644 nghìn HK.Km, tăng 56,71% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, vận tải hành khách đạt 3.544 nghìn HK, tăng 22,87%; luân chuyển đạt 162.625 nghìn HK.Km, tăng 17,22% so với cùng kỳ năm 2021.

              Vận tải hàng hóa: Tháng Sáu vận tải hàng hóa ước tính đạt 993 nghìn tấn, tăng 27,81%; luân chuyển đạt 45.606 nghìn tấn.km, tăng 72,53% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, vận tải hàng hóa đạt 5.590 nghìn tấn, tăng 12,69%; luận chuyển đạt 255.759 nghìn tấn.km, tăng 19,45% so với cùng kỳ năm trước.

              Doanh thu vận tải: Tổng doanh thu vận tải tháng Sáu ước đạt trên 345 tỷ đồng, tăng 74,19% so cùng kỳ năm trước; trong đó, doanh thu vận tải hành khách đạt 83 tỷ đồng, doanh thu vân tải hàng hóa đạt 177 tỷ đồng, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 85 tỷ đồng. Tính chung 6 tháng đầu năm doanh thu vận tải đạt 1.899 tỷ đồng, tăng 25,41% so với cùng kỳ năm 2021.

9. Một số vấn đề xã hội

9.1. Giáo dục

Tiếp tục thực hiện quy hoạch mạng lưới trường, lớp thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Năm học 2021-2022 và 6 tháng đầu năm 2022 đã sáp nhập được 06 trường thành 03 trường; sáp nhập (gộp) 19 điểm trường mầm non và tiểu học; xóa 72 điểm trường; đưa 2.233 học sinh lớp 3, 4, 5 ở điểm trường về học tại trường chính.[1] Cơ sở vật chất trường, lớp học được chú trọng đầu tư theo hướng kiên cố hoá, hiện đại hóa và chuẩn hóa; nhiều trường vùng cao có cơ sở vật chất tốt, cảnh quan đẹp, hoạt động giáo dục sôi nổi, có chất lượng. Đội ngũ CBQL giáo dục và giáo viên được tăng cường về số lượng, từng bước nâng cao chất lượng, tâm huyết và trách nhiệm; căn bản đáp ứng được yêu cầu đổi mới.

Trong 6 tháng đầu năm 2022, công tác Giáo dục và Đào tạo trên địa bàn tỉnh đã bám sát các Chỉ thị, Nghị quyết của Tỉnh ủy, UBND tỉnh để triển khai thực hiện tốt Chương trình công tác giáo dục. Sáu tháng đầu năm 2022 đã triển khai thực hiện các chỉ tiêu kế đạt 100% kế hoạch giao; tỷ lệ huy động trẻ nhà trẻ đạt 31%; huy động trẻ mẫu giáo đạt 98% (riêng mẫu giáo 5 tuổi đạt 99,9%); huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99,9%; học sinh hoàn thành chương trình Tiểu học lên lớp 6 đạt 99%. Công tác PCGD tiếp tục được đẩy mạnh, duy trì vững chắc ở 100% xã, phường, thị trấn; có 152/152 xã đạt chuẩn PCGDTH mức độ 3; 71 xã đạt chuẩn PCGDTHCS mức độ 3 152 xã đạt chuẩn XMC mức độ 2. Trong năm học 2021-2022 và 6 tháng đầu năm 2022, tiếp tục sáp nhập được 06 trường thành 03 trường; sáp nhập (gộp) 19 điểm trường mầm non và tiểu học; xóa 72 điểm trường; đưa 2.233 học sinh lớp 3, 4, 5 ở điểm trường về học tại trường chính.

9.2. Văn hóa, thể thao

Lĩnh vực văn hoá: Trong 6 tháng đầu năm 2022, dịch bệnh covid-19 cơ bản được kiểm soát, nhờ đó mà các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình dần sôi động trở lại, đồng thời vẫn đảm bảo công tác phòng chống dịch theo yêu cầu của Chính phủ. Tập trung tuyên truyền, tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ chào mừng các sự kiện lớn của đất nước, của tỉnh như: Đại hội Thể dục Thể thao Đông Nam Á lần thứ 31 – SEAGAMES 31; 92 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; 47 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; 68 năm Ngày chiến thắng Điện Biên Phủ; 132 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; Đại hội Thể dục Thể thao tỉnh Lào Cai lần thứ VII; 115 năm Ngày thành lập tỉnh Lào Cai, Hội thi Thể thao các dân tộc thiểu số toàn quốc lần thứ XII tại Lào Cai,... Công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa được chú trọng. 6 tháng đầu năm, UBND tỉnh trình Bộ VHTTDL 03 di sản văn hóa phi vật thể đưa vào danh mục di sản phi vật thể Quốc gia, đạt 150% kế hoạch giao. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với xây dựng nông thôn mới, văn minh đô thị, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở được đẩy mạnh; Tiếp tục triển khai thực hiện Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 thông qua việc triển khai xây dựng Kế hoạch Cuộc thi Đại sứ văn hóa đọc tỉnh Lào Cai hằng năm. Các hoạt động phục vụ văn hóa cơ sở tiếp tục quan tâm triển khai thực hiện: các đội tuyên truyền lưu động ước thực hiện được 495/975 buổi, đạt 50,8% kế hoạch. Hoạt động thư viện: cấp 2.680/4.700 thẻ, đạt 57,02% kế hoạch giao

 Hoạt động thể thao: Công tác tổ chức các hoạt động thể dục thể thao trong tỉnh đã được khôi phục trở lại, sôi nổi và rộng khắp. Số người tham gia tập luyện TDTT thường xuyên đạt khoảng trên 35,7 %; Số hộ gia đình thể thao đạt trên 20,8 %; Khoảng trên 1.100 câu lạc bộ TDTT (trong đó có trên 300 CLB hoạt động nhiều môn)… Chú trọng  hoạt động thể thao thành tích cao. Tiếp tục duy trì đào tạo đối với 240 VĐV (30 VĐV đội tuyển Cấp tỉnh, 75 VĐV đội tuyển trẻ, 135 VĐV đội tuyển năng khiếu cấp tỉnh).[2]

Thể thao Lào Cai đã có những thành tích nổi bật và đáng tự hào tại các đấu trường quốc tế: các vận động viên đã xuất sắc giành được 04 huy chương tại 02 giải đấu quan trọng tiền Seagames 31: Giải vô địch Taekwondo Đông Nam Á lần thứ 15 năm 2022; Giải vô địch cờ vua trẻ Đông Nam Á các nhóm tuổi 8, 10, 12, 14, 16, 18. Đặc biệt, tại SEAGAMES 31, thể thao Lào Cai đã góp phần vào thành tích chung của Đoàn thể thao Việt Nam với 01 HCV của VĐV Hoàng Thị Duyên. Ngoài việc bảo vệ thành công tấm HCV  SEAGAMES môn cử tạ ở hạng cân 59kg, Hoàng Thị Duyên cũng đã phá kỷ lục SEAGAMES ở nội dung cử giật với thành tích 96kg, thiết lập kỷ lục SEAGMES mới ở nội dung này.

9.3. Y tế

Về công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Trong 6 tháng đầu năm 2022 trên địa bàn tỉnh phát hiện 181.521 ca F0, số khỏi là 181.237 người; bệnh nhân tử vong 40 người. Tổ chức triển khai tiêm chủng vắc xin phòng COVID-19 trên địa bàn tỉnh Lào Cai bảo đảm an toàn, hiệu quả. Tổng liều vắc xin đã tiếp nhận 1.874.854 liều, tổng liều vắc xin đã tiêm 1.796.364 mũi; trong đó, đối tượng từ 5-11 tuổi 62.045 trẻ; đối tượng từ 12-17 tuổi: Mũi 1: 83.200 người, đạt 99,44%; mũi 2: 79.601 người, đạt 95,14%; đối tượng từ 18 tuổi trở lên: Mũi 1: 480.572 người, đạt 99,7%; mũi 2: 476.700 người, đạt 98,9%; mũi nhắc lại và bổ sung: 614.246 người.

Tiếp tục thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế - dân số. Các bệnh truyền nhiễm lưu hành địa phương, một số bệnh như tiêu chảy, quai bị... xảy ra rải rác tại các huyện, thị xã, thành phố được giám sát phát hiện, điều trị kịp thời[3]. Công tác KCB được duy trì thường xuyên, đảm bảo chế độ thường trực cấp cứu, sẵn sàng tiếp nhận, điều trị kịp thời bệnh nhân; thực hiện nghiêm các quy định về tinh thần, thái độ, trách nhiệm phục vụ nhân dân trong các cơ sở khám, chữa bệnh công lập. Duy trì truyền thông nhằm giảm mất cân bằng giới tính khi sinh tại 99/152 xã, phường, thị trấn.[4]

 Về công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: Trong 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh đã kiểm tra đối với 6.512 lượt cơ sở thực phẩm, trong đó 6.095 lượt cơ sở đạt yêu cầu chiếm 93,6% (chỉ tiêu giao là 84%, đạt 111% chỉ tiêu kế hoạch giao); cấp 71 giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP, lũy tích 989/1.122 cơ sở thuộc diện cấp giấy được cấp giấy chứng nhận chiếm 88,1% (đạt 103,7% chỉ tiêu kế hoạch giao). Trong 6 tháng xảy ra 02 vụ ngộ độc thực phẩm làm 15 người mắc (bình quân 1,97 ca/100.000 dân).

Công tác khám chữa bệnh: Được duy trì thường xuyên, đảm bảo chế độ thường trực cấp cứu, sẵn sàng tiếp nhận, điều trị bệnh nhân. Tổng số khám chữa bệnh chung trong 06 tháng: 1.115.103, khám chữa bệnh BHYT: 348.362, công suất sử dụng giường bệnh: 82,81 %. Đảm bảo cung ứng đủ thuốc phục vụ cho nhân dân; giá thuốc trên địa bàn tỉnh ổn định.

9.4. Tai nạn giao thông

Tháng Sáu, lực lượng Cảnh sát giao thông, Thanh tra giao thông, Cảnh sát cơ động phối hợp với các ngành, các địa phương huy động lực lượng, phương tiện, triển khai đồng bộ các biện pháp công tác, bố trí lực lượng, tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm an toàn giao thông. Theo báo cáo của Ban An toàn giao thông tỉnh, tháng 6/2022 xảy ra 4 vụ tai nạn giao thông và va chạm giao thông đường bộ, làm 02 người chết và 8 người bị thương, so với tháng trước số vụ giảm 43%; số người chết giảm 75%, số người bị thương không đổi. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông và va chạm giao thông đường bộ không đổi; số người chết giảm 66,67%; số người bị thương tăng gấp 3 lần. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 37 vụ tai nạn giao thông và va chạm giao thông đường bộ, làm 16 người chết và 40 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước số vụ tăng 19%; số người chết không đổi và số người bị thương tăng 60%.

Lực lượng Công an, Thanh tra giao thông thường xuyên tăng cường tuần tra, kiểm soát, ngăn chặn tình trạng đua xe trái phép, không đội mũ bảo hiểm, xe ô tô chạy quá tốc độ, quá tải, xe khách chở quá số người qui định, kiểm tra nồng độ cồn. Trong tháng 6 đã lập biên bản xử lý 434 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, tạm giữ 176 phương tiện các loại, tước 113 giấy phép lái xe, xử phạt nộp Kho bạc Nhà nước 1,35 tỷ đồng./.


[1] Quy mô trường, lớp năm học 2021-2022: Toàn tỉnh có 612 trường, 1360 điểm trường; 7.896 lớp với 225.686 học sinh (so với năm học 2020-2021 tăng 3.959 học sinh), trong đó: Mầm non 197 trường, 2.329 nhóm/lớp, 57.415 trẻ; Tiểu học 182 trường, 3.500 lớp, 85.344 học sinh; THCS 187 trường, 1.716 lớp, 58.123 học sinh; THPT 36 trường, 553 lớp, 21.547 học sinh; Trung tâm GDNN&GDTX 10 trung tâm, 95 lớp, 3.257 học viên; 21 cơ sở giáo dục nghề nghiệp có quy mô đào tạo bình quân 13.000 người/năm, trong đó: trình độ cao đẳng, trung cấp: 2700 người, đào tạo sơ cấp và bồi dưỡng thường xuyên 10.300 người; 100% xã, phường, thị trấn có TTHTCĐ

[2] Tính đến 30/5/2022, các VĐV tỉnh Lào Cai đã tham gia 10/36 giải, đạt 27,77% kế hoạch; Giành 46/90 huy chương các loại (16 HCV, 11 HCB và 19 HCĐ; Trong đó có 2 giải quần chúng toàn quốc giành 12 huy chương: 3 HCV, 7 HCB, 2 HCĐ), đạt 51,1%% kế hoạch.

[3] Trong tháng lưu hành ổ dịch Sởi tại thôn Phìn Chư – Nàn Xín - Si Ma Cai: mắc mới 04 ca, lũy kế: 84 ca. Các ca bệnh đã khỏi, không có biến chứng. Ổ dịch kết thúc hoạt động ngày 10/02/2022. .

[4] Biến động dân số đến hết tháng 05/2022: Tổng số trẻ sinh: 3.822, trong đó số nữ: 1.795 trẻ (tỷ số giới tính khi sinh: 112,9 trẻ trai/100 trẻ gái), trẻ sinh ra là con thứ 3 trở lên: 546 (14,29%); số trẻ sinh là con phụ nữ dưới 20 tuổi: 674 (17,63%).

Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập