1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Tháng Tư, tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trên địa bàn tỉnh cơ bản duy trì và ổn định; trong tháng, chủ yếu tập trung chăm sóc cho cây trồng vụ xuân, đồng thời đẩy nhanh tiến độ làm đất và chuẩn bị các điều kiện gieo trồng lúa, ngô vụ mùa sớm ở vùng cao; công tác phòng chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm, thuỷ sản được thực hiện tốt không để dịch bệnh lớn xảy ra; công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng tiếp tục được tăng cường.
1.1. Sản xuất nông nghiệp
a) Trồng trọt
- Cây lúa xuân: Diện tích gieo cấy ước thực hiện 9.8689 ha, giảm 0,34% so với cùng kỳ năm trước do một số địa phương chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất xây dựng cơ bản. Hiện nay, lúa sinh trưởng và phát triển tốt; tuy nhiên sâu bệnh hại lúa đã bắt đầu xuất hiện, đã có 53 ha lúa bị nhiễm bệnh, chủ yếu là bệnh đạo ôn lá, rầy lưng trắng, vàng lá, rầy trắng đầu đỏ, ruồi đục nõn,... gây hại rải rác với mật độ và tỷ lệ hại nhẹ trên lúa xuân sớm.
- Cây ngô: Diện tích gieo trồng ngô xuân ước thực hiện đạt 10.725 ha, so với cùng kỳ năm trước giảm 4,6%; diện tích giảm do một số địa phương đã chuyển đổi diện tích ngô xuân sang trồng cây ăn quả, quế và cây có giá trị kinh tế cao hơn. Ngô mùa sớm ở vùng cao đến nay đã trồng được 12.805 ha, giảm 2% so với cùng kỳ năm trước, hiện nay, cây ngô đang phát triển được 6-10 lá.
- Cây rau đậu các loại: Hiện nay, các địa phương đang tập trung trồng và chăm sóc rau đậu các loại vụ xuân. Ước tính đã trồng được 2.037,55 ha rau đậu các loại, so cùng kỳ năm trước tăng 12,7%, do một số địa phương chuyển đổi từ đất trồng ngô sang trồng rau.
Cùng với việc chăm sóc cây trồng vụ xuân, các địa phương đang tiến hành làm đất gieo cấy lúa mùa; đã chuẩn bị được 69 tấn lúa giống (huyện Mường Khương 7 tấn, huyện Bắc Hà 27 tấn, thị xã Sa Pa 35 tấn).
- Cây lâu năm:
+ Cây ăn quả: Các địa phương đang tập trung chăm sóc, thu hoạch một số cây ăn quả như chuối, dứa, ... Sản lượng chuối thu hoạch trong tháng Tư ước đạt 10.414 tấn, tăng 6,76% so với cùng kỳ năm 2022, toàn bộ sản lượng chuối được xuất sang thị trường Trung Quốc, giá bán bình quân, đạt 7.000 - 9.000 đồng/kg. Sản lượng dứa thu hoạch trong tháng ước đạt 6.230 tấn, tăng 7,64%; lũy kế 4 tháng đầu năm đạt 12.618 tấn, tăng 7,58% so với cùng kỳ năm 2022; giá bán bình quân đạt 3.200 - 3.800 đồng/kg.
+ Cây chè: Tập trung chăm sóc, gieo ươm giống chè cho kế hoạch trồng mới năm 2023. Trong tháng, diện tích chè trồng mới đạt 161 ha; lũy kế 4 tháng đầu năm trồng được 187 ha. Sản lượng thu hoạch trong tháng Tư đạt 7.404 tấn, tăng 6,27% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 4 tháng đầu năm, sản lượng thu hoạch đạt 12.654 tấn, tăng 6,51%.
b) Chăn nuôi
Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh duy trì và phát triển tốt. Tỉnh đang tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện các chương trình phát triển chăn nuôi, theo dõi sát sao ảnh hưởng của dịch tả Châu Phi; công tác kiểm dịch vận chuyển và kiểm soát giết mổ trên địa bàn được quan tâm thực hiện tốt. Dự ước, đàn trâu hiện có đến tháng 4/2023 là 105,22 nghìn con, giảm 1,52% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò ước 22,98 nghìn con, tăng 0,83%; đàn lợn ước 383 nghìn con, tăng 2,87%; đàn gia cầm ước 5,03 triệu con, tăng 4,38% (riêng đàn gà là 4,61 triệu con, tăng 5,47%).
1.2. Lâm nghiệp
Tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng, tập trung chuẩn bị các điều kiện để thực hiện kế hoạch bảo vệ phát triển rừng năm 2023; tăng cường lực lượng tuần tra, kiểm soát ngăn chặn buôn bán, khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật và phòng chống cháy rừng.
- Công tác phát triển rừng: Diện tích trồng rừng mới tập trung trong tháng ước đạt 286 ha; lũy kế ước đạt 3.248 ha, giảm 7,74% so với cùng kỳ năm 2022, giảm do kế hoạch trồng rừng năm 2023 giảm.
- Khai thác lâm sản: Sản lượng gỗ khai thác trong tháng ước đạt 16.047 m3, tăng 3,17% so với cùng kỳ năm trước; sản hượng củi khai thác ước đạt 21.340 ste, giảm 0,65%.
- Quản lý, bảo vệ rừng: Các địa phương đang tiếp tục tăng cường công tác tuần tra canh phòng cháy rừng, chỉ đạo lực lượng kiểm lâm địa bàn tuyên truyền, vận động Nhân dân bảo vệ và phát triển rừng. Trong tháng, đã tổ chức 51 cuộc họp dân, lũy kế 165 cuộc tuyên truyền hướng dẫn Nhân dân thực hiện các biện pháp kỹ thuật về bảo vệ, phát triển rừng; phòng cháy, chữa cháy rừng với 3.255 lượt người dân tham gia, lũy kế 8.508 lượt.
Tăng cường tuần tra, bảo vệ rừng, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vụ vi phạm pháp luật về lâm nghiệp. Trong tháng, các cơ quan chức năng đã kiểm tra, phát hiện và xử lý 23 vụ vi phạm Luật Lâm nghiệp.
1.3. Thuỷ sản
Các địa phương trong tỉnh đang tập trung thu hoạch và chăm sóc đàn cá; đồng thời quản lý, chăm sóc đàn cá bố mẹ để tiến hành tham gia sinh sản. Ước tính diện tích thủy sản đang nuôi là 2.623,64 ha, sản lượng thu hoạch trong tháng ước đạt 940 tấn, tăng 6,09% so với cùng kỳ năm 2022.
2. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tháng 4/2022 còn gặp một số khó khăn nhất định như: Ảnh hưởng của tình trạng thiếu nguyên liệu cho sản xuất chế biến, chế tạo (quặng Apatit loại I, than cốc,...); công tác thực hiện các thủ tục pháp lý, giải phóng mặt bằng của các dự án trọng điểm còn nhiều vướng mắc; sức mua trên thị trường trong tỉnh thấp, hàng tồn kho của một số ngành sản xuất công nghiệp chính còn ở mức cao; các thủy điện lớn giảm công suất phát điện do đang là đỉnh điểm của mùa khô,…
2.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng Tư ước giảm 1,87% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giảm sâu nhất là ngành sản xuất và phân phối điện giảm 22,88%, do đang là đỉnh điểm của mùa khô nêm không đủ nguồn nước để đảm bảo công suất phát điện; tiếp đến là ngành chế biến, chế tạo giảm 6,14%, do không đủ nguyên liệu để sản xuất (phôi thép), một số đơn vị cho nghỉ luân phiên để bảo dưỡng máy móc, thiết bị, xử lý ảnh hưởng môi trường,...; ngành công nghiệp khai khoáng tăng cao với mức 25,64%, do có 01 doanh nghiệp đi vào sản xuất sau một năm ngừng hoạt động; ngành hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,39%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, chỉ số IIP trên địa bàn tỉnh tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong các ngành công nghiệp, ngành công nghiệp khai khoáng tăng 32,6%, đóng góp 8,16 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,7%, đóng góp 0,62 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 12,45%, làm giảm 3,41 điểm phần trăm trong mức tăng chung; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 12,26%, đóng góp 0,23 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
Trong các ngành sản xuất công nghiệp của tỉnh, một số ngành có chỉ số sản xuất 4 tháng tăng so với cùng kỳ năm 2022 như: Ngành khai thác quặng kim loại tăng 14,7%; khai khoáng khác tăng 62,97%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 4,54%; sản xuất kim loại tăng 2,47%; sản xuất đồ uống tăng 24,03%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 86,16%.... Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ năm trước như: Ngành chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa giảm 84,52%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 3,08%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 8,63%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 18,84%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu giảm 41,37%; sản xuất và phân phối điện giảm 12,45%,...
2.2. Sản phẩm công nghiệp chủ yếu
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tháng Tư tăng so với cùng kỳ năm trước như: Quặng sắt tăng 18,16%; quặng đồng và tinh quặng đồng tăng 14,58%; quặng Apatit tăng 63,64%; quặng Felspar tăng 135,47%; dứa đóng hộp tăng 7,64%; nước tinh khiết tăng 24,03%; dịch vụ phụ thuộc liên quan đến in tăng 89,55%; axit sunfuric tăng 21,94%; axit photphoric tăng 20,33%; DCP tăng 10,36%; phân lân P2O5% tăng 51,25%; phân bón NPK tăng 48,5%; phân bón DAP tăng 45,26%; gạch xây dựng tăng 17,9%, đồng ka tốt tăng 7,81%; cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép tăng 183,07%; điện thương phẩm tăng 1,2%; nước uống được tăng 4,68%. Tuy nhiên, trong kỳ cũng có một số sản phẩm công nghiệp giảm so với cùng kỳ như: Tinh bột sắn giảm 8,05%; ván ép từ gỗ giảm 78,23%; gỗ cốp pha giảm 100%; giấy đế giảm 3,08%; in khác giảm 26,33%; phốt pho vàng giảm 8,1%; phân lân nung chảy giảm 84,14%; dược phẩm khác (cao atiso) giảm 68,55%; bê tông tươi giảm 26,44%; vàng chưa gia công giảm 18,94%; thùng, bể chứa và các vật bằng sắt thép có dung tích >300 lít giảm 54,58%; bi, bánh răng, hộp số, các bộ phận điều khiển và chuyển động giảm 41,37%; điện sản xuất giảm 17,67%.
3. Vốn đầu tư phát triển
Tổng vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh Lào Cai tháng Tư ước đạt 398,66 tỷ đồng, tăng 8,28% so với cùng kỳ năm trước. Bao gồm, vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 231,60 tỷ đồng, tăng 7,63% so với cùng kỳ năm trước; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 167,06 tỷ đồng, tăng 9,2%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023 ước đạt 1.493,58 tỷ đồng, đạt 24,49% kế hoạch năm và tăng 19,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 842,19 tỷ đồng, đạt 13,81% kế hoạch năm và tăng 23,45% so với cùng kỳ; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước đạt 651,39 tỷ đồng, tăng 14,13%.
Vốn đầu tư thực hiện tháng Tư tăng mạnh so với cùng kỳ, nguyên nhân chủ yếu là do kế hoạch vốn năm 2023 tăng so với năm 2022 (tăng 32%); mặt khác, được sự quan tâm, chỉ đạo và tạo môi trường đầu tư của tỉnh, ngay từ những tháng đầu năm các chủ dự án đã đẩy nhanh tiến độ thi công công trình chuyển tiếp; đẩy nhanh công tác đấu thầu và khởi công các dự án đã được phê duyệt. Do vậy, các dự án chuyển tiếp đảm bảo tiến độ theo kế hoạch và được tập trung triển khai như: Xây dựng Khu du lịch quốc gia Sa Pa; xây dựng dọc sông Hồng kết nối đô thị thành phố Lào Cai với đô thị Phố Lu; xây dựng dọc sông Hồng kết nối đô thị Phố Lu với đô thị Bảo Hà - Tân An; xây dựng đô thị Bảo Hà; xây dựng kết nối đô thị du lịch Y Tý và vùng phụ cận, huyện Bát Xát; đô thị Võ Lao; đô thị Si Ma Cai,... các dự án trọng điểm của tỉnh cũng được đẩy nhanh tiến độ như: Cảng hàng không Sa Pa, Cầu biên giới qua Sông Hồng tại xã Bản Vược và hạ tầng kết nối; Đường BOT Lào Cai - Sa Pa; tỉnh lộ 156; cầu Phú Thịnh. Phối hợp với Bộ Giao thông vận tải đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án: Đấu nối ray giữa ga Lào Cai với ga Hà Khẩu Bắc; Đầu tư kết nối giao thông các tỉnh miền núi phía Bắc do Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) và Chính phủ Úc tài trợ (Quốc lộ 279 nối từ nút giao IC16 cao tốc Nội Bài - Lào Cai đến Lai Châu,…
4. Thương mại, dịch vụ và giá cả
Tháng Tư, hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ diễn ra khá sôi động. Do có những ngày nghỉ dài như, Lễ Giỗ tổ Hùng Vương; Giải phóng Miền nam, Thống nhất đất nước 30/4 và ngày Quốc tế lao động 01/5 nên lượng khách đến tham quan du lịch tại các điểm du lịch tăng, kéo theo các dịch vụ ăn uống, lưu trú, nhà hàng, khách sạn cũng tăng mạnh. Bên cạnh đó, bắt đầu từ ngày 01/4/2023 Công ty TNHH Dịch vụ Du lịch Cáp treo Fansipan Sa Pa triển khai chương trình khuyến mại giảm giá vé cáp treo cho người dân 06 tỉnh Tây Bắc và 02 tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ nên đã thu hút lượng lớn khách đến tham quan, mua sắm. Sản phẩm hàng hóa tiêu dùng thiết yếu trên địa bàn tỉnh được đảm bảo, giá cả không có nhiều biến động, nguồn cung dồi dào,...
4.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Tư ước đạt 2.114,98 tỷ đồng, tăng 20,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 1.486,37 tỷ đồng, tăng 21,51%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 358,66 tỷ đồng, tăng 22,29%; doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 19,99 tỷ đồng, tăng gấp 6,7 lần; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 249,95 tỷ đồng, tăng 13,52% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 8.126,14 tỷ đồng, tăng 20,8% so với cùng kỳ năm trước. Xét theo ngành hoạt động như sau:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 5.774,69 tỷ đồng, chiếm 71,06% tổng mức và tăng 21,08% so với cùng kỳ. Hầu hết các nhóm ngành hàng đều tăng so với cùng kỳ năm trước, cụ thể: Lương thực, thực phẩm tăng 25,26%; hàng may mặc tăng 18,58%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 17,33%; vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 45,8%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 16,34%; ô tô các loại tăng 32,94%; phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng) tăng 9,43%; xăng dầu các loại tăng 12,22%; nhiên liệu khác tăng 35,18%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 22,05%; hàng hóa khác tăng 26,96%.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước tính đạt 1.342,89 tỷ đồng, chiếm 16,53% tổng mức và tăng 21,38% so với cùng kỳ năm trước, tăng do các cơ sở hoạt động lưu trú và ăn uống hoạt động ổn định, các lễ tiệc được tổ chức tại các nhà hàng tăng, chương trình khuyến mãi kích cầu du lịch, đặc biệt trong tháng có ngày nghỉ lễ dài, nhu cầu tham quan, nghỉ ngơi của du khách tăng,... thu hút được đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh đến với tỉnh Lào Cai.
- Doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 60,18 tỷ đồng, chiếm 0,74% tổng mức và tăng gấp 4,5 lần so với cùng kỳ năm trước, tăng do các công ty du lịch lữ hành đã hoạt động tương đối ổn định sau ảnh hưởng của dịch Covid-19. Lượt khách du lịch theo tour tháng Tư ước đạt 8.709 lượt khách, tăng 7,02% so tháng trước.
- Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 948,37 tỷ đồng, chiếm 11,67% tổng mức và tăng 13,19% so với cùng kỳ năm trước.
4.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Tổng giá trị xuất nhập khẩu, mua bán, trao đổi hàng hoá qua các cửa khẩu trong tháng 4/2023 ước đạt 175,53 triệu USD, tăng 24,89% so với tháng trước, tăng 17,9% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế ước đạt 591,29 triệu USD, giảm 9,9% so với cùng kỳ năm 2022 và đạt 11,83% so kế hoạch, trong đó:
- Giá trị xuất khẩu ước đạt 78,50 triệu USD, tăng 17,63% so với tháng trước, giảm 8,02% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế ước đạt 252,43 triệu USD, giảm 26,55% so với cùng kỳ năm 2022 và đạt 11,74% kế hoạch năm.
- Giá trị nhập khẩu ước đạt 34 triệu USD, tăng 36,73% so với tháng trước, tăng 40,75% so với tháng cùng kỳ năm 2022; lũy kế ước đạt 129,68 triệu USD, giảm 6,85% so với cùng kỳ năm 2022 và đạt 14,91% kế hoạch năm.
- Các loại hình khác (TNTX, KNQ, chuyển CK, Quá cảnh, Doanh nghiệp trong tỉnh thực hiện XNK tại các cửa khẩu khác) ước đạt 63,03 triệu USD, tăng 28,79% so với tháng trước và tăng 60,09% so với cùng kỳ năm 2022; lũy kế ước đạt 209,18 triệu USD, tăng 20,64% so với cùng kỳ 2022 và đạt 10,56% kế hoạch năm.
4.3. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
a) Chỉ số giá tiêu dùng
Sức mua của người tiêu dùng giảm trong khi sản xuất ở các nông hộ, trang trại lợn được cải thiện, năng suất cao, nguồn cung nhiều làm cho giá lợn giảm; cùng với giá thép xây dựng giảm do giá nguyên vật liệu tiếp tục đi xuống là các nguyên nhân chính làm giảm chỉ số giá tiêu dùng trong tháng.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tại Lào Cai tháng 4/2023 giảm 0,59% so với tháng trước, tăng 0,58% so với cùng tháng năm trước. Bình quân chung 4 tháng đầu năm 2023, CPI tăng 2,05% so với bình quân cùng kỳ năm 2022.
Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính của tháng Tư, có 4 nhóm giữ giá ổn định, 4 nhóm tăng giá và 3 nhóm giảm giá so với tháng trước.
- Các nhóm có chỉ số ổn định: Nhóm May mặc, mũ nón và giày dép; nhóm thuốc và dịch vụ y tế; nhóm bưu chính viễn thông; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác (CPI=100).
- Các nhóm có chỉ số tăng: Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,09%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,08%; nhóm giao thông tăng 0,24%; nhóm giáo dục tăng 0,40%. Các nguyên nhân chính làm CPI tháng 4 tăng là do: (1) Chỉ số giá nhóm giao thông tăng 0,24% do giá xăng dầu tăng, góp phần làm tăng CPI chung khoảng 0,03 điểm phần trăm; (2) Chỉ số giá nhóm giáo dục tăng 0,40% do giá một số mặt hàng văn phòng phẩm tăng, đóng góp vào mức tăng CPI chung khoảng 0,02 điểm phần trăm.
- Các nhóm có chỉ số giảm: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,26%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 1,53%; nhóm văn hoá, giải trí và du lịch giảm 0,06%. Các yếu tố làm giảm CPI trong tháng 4 năm 2023 là (1) Chỉ số giá nhóm thực phẩm giảm 1,86% do nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng thực phẩm (thịt gia súc, thịt chế biến, trứng các loại, thủy sản tươi sống) giảm, đóng góp vào mức giảm CPI khoảng 0,38 điểm phần trăm; (2) Chỉ số giá nhóm rau tươi, khô và chế biến giảm 3,42% do các loại rau, củ, quả vào vụ thu hoạch, nguồn cung rau dồi dào, góp phần làm giảm CPI chung khoảng 0,07 điểm phần trăm; (3) Chỉ số giá nhóm vật liệu bảo dưỡng nhà ở giảm 0,72% do giá các mặt hàng thép xây dựng giảm, đóng góp vào mức giảm CPI chung khoảng 0,02 điểm phần trăm; (4) Chỉ số giá nhóm ga và các loại chất đốt khác giảm 10,34%, góp phần làm giảm CPI chung khoảng 0,13 điểm phần trăm.
b) Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Giá vàng bình quân tháng Tư là 5.511.985 đồng/chỉ (tăng 3,42%); giá đô la Mỹ bình quân là 23.588 đồng/1 USD (giảm 1,25%) do ảnh hưởng của thị trường trong nước và thế giới.
4.4. Hoạt động vận tải
Vận tải hành khách (HK): Tháng Tư, vận tải HK ước đạt 1.132 nghìn người, tăng 76,86% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển ước đạt 52.378 nghìn HK.Km, tăng 81,6%; doanh thu ước đạt 244,28 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, vận tải hành khách đạt 4.247 nghìn người, tăng 85,02% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển đạt 199.907 nghìn HK.Km, tăng 88,42%; doanh thu đạt 887,46 tỷ đồng, tăng gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ năm 2022. Hoạt động vận tải hành khách tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước là do tỉnh thực hiện tốt các biện pháp kích cầu du lịch và triển khai các chương trình khuyến mãi, tri ân khách hàng giảm giá,... đặc biệt, từ ngày 01/4/2023 Công ty TNHH Dịch vụ Du lịch Cáp treo Fansipan Sa Pa bắt đầu triển khai chương trình khuyến mại giảm giá vé cáp treo cho người dân 06 tỉnh Tây Bắc và 02 tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ nên đã thu hút lượng lớn khách đến tham quan, du lịch.
Vận tải hàng hóa và dịch vụ: Tháng Tư ước tính đạt 1.242 nghìn tấn, tăng 31,61% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển ước đạt 44.930 nghìn tấn.km, tăng 3,55%; doanh thu ước đạt 189,97 tỷ đồng, tăng 14,53%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, vận tải hàng hóa đạt 4.830 nghìn tấn, tăng 33,32% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển đạt 176.422 nghìn tấn.km, tăng 6,65%; doanh thu đạt 724,8 tỷ đồng, tăng 16,86%, tăng do nhu cầu vận chuyển hàng hóa của các đơn vị sản xuất kinh doanh và chủ yếu là vận chuyển vật liệu xây dựng, quặng và hàng hóa xuất nhập khẩu.
Doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng Tư ước đạt 91,21 tỷ đồng, tăng 10,92% so với cùng kỳ năm trước; tính chung 4 tháng đầu năm, doanh thu ước đạt 357,36 tỷ đồng, tăng 11,54% so với cùng kỳ năm 2022.
5. Một số vấn đề xã hội
5.1. Giải quyết việc làm, an sinh xã hội
- Trong tháng Tư, thực hiện tư vấn, kết nối hỗ trợ giải quyết việc làm cho 2.019 lao động; trong đó, có 63 lao động được vay vốn Quỹ quốc gia việc làm; lũy kế 4 tháng đầu năm 2023, thực hiện giải quyết việc làm cho 5.848 lao động[1], đạt 29% kế hoạch năm. Thẩm định, ban hành 272 quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp; lũy kế ban hành 467 quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp với tổng số tiền 9.141,63 triệu đồng[2].
- Thực hiện quản lý trên 25 nghìn hồ sơ người có công với cách mạng, trong đó có 3.154 người có công, thân nhân người có công với cách mạng hưởng hàng tháng trên địa bàn theo quy định. Đảm bảo các chế độ chính sách ưu đãi đối với người có công và người tham gia kháng chiến; ban hành Quyết định điều dưỡng cho 1.151 người có công, thân nhân liệt sỹ đến niên hạn điều dưỡng năm 2023.
5.2. Lĩnh vực y tế
- Công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19: Tiếp tục chỉ đạo tổ chức triển khai hiệu quả Nghị quyết 38/NQ-CP của Chính phủ; chủ động, sẵn sàng đáp ứng các tình huống dịch có thể xảy ra, không để bất ngờ, bị động. Quán triệt và thực hiện nghiêm những giải pháp phòng, chống dịch COVID-19 theo công thức “2K (khẩu trang, khử khuẩn) + vắc xin + thuốc + điều trị + công nghệ + ý thức người dân và các biện pháp khác” với các trụ cột cách ly, xét nghiệm, điều trị.
Tiếp tục công tác giám sát, phát hiện COVID-19; trong tháng Tư, toàn tỉnh ghi nhận 139 trường hợp mắc mới COVID-19; luỹ kế số ca mắc 186.572 ca, số ca khỏi 186.485 ca.
Duy trì công tác tiêm chủng phòng dịch COVID-19 cho Nhân dân, tiêm mũi tăng cường, đặc biệt là đối với nhóm có nguy cơ cao (người có bệnh lý nền, người cao tuổi,...); chuẩn bị đầy đủ vắc xin, cơ sở vật chất để tiêm phòng cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi.
- Công tác khám chữa bệnh: Duy trì thường xuyên, đảm bảo chế độ thường trực cấp cứu, sẵn sàng tiếp nhận, điều trị bệnh nhân; thực hiện nghiêm các quy định về tinh thần, thái độ, trách nhiệm phục vụ Nhân dân trong các cơ sở khám, chữa bệnh; nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho Nhân dân. Tổng số khám chữa bệnh chung trong tháng đạt 150.422 lượt người; khám chữa bệnh BHYT là 70.869 lượt; trong đó, người nghèo là 8.432 người, Dân tộc thiểu số là 30.485 người, trẻ em dưới 6 tuổi là 12.585 trẻ. Công suất sử dụng giường bệnh trong tháng đạt 111,06% (tại bệnh viện đạt 110,84%, tại PKĐKKV đạt 113,24%).
- Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: Ban hành Kế hoạch số 181/KH-UBND ngày 31/3/2023 kế hoạch kiểm tra trong “Tháng hành động vì an toàn thực phẩm” tỉnh Lào Cai năm 2023; Kế hoạch số 182/KH-UBND ngày 31/3/2023 kế hoạch triển khai “Tháng hành động vì an toàn thực phẩm” tỉnh Lào Cai năm 2023. Trong tháng, kiểm tra việc chấp hành các quy định về bảo đảm ATTP đối với 210 cơ sở, 198/210 cơ sở đạt, chiếm 93,4%; xử phạt vi phạm hành chính 10 cơ sở. Test nhanh 156 mẫu, 154/156 mẫu đạt TCVS, chiếm 98,7%; cấp 36 giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP; tiếp nhận 156 hồ sơ tự công bố.
Đảm bảo ATTP cho các sự kiện trên địa bàn tỉnh; test nhanh 33 mẫu thực phẩm, 31/33 mẫu đạt TCVS; kiểm tra độ sạch 82 mẫu bát đĩa, 100% mẫu đạt. Trong tháng không xảy ra ngộ độc thực phẩm cấp tính.
5.3. Lĩnh vực giáo dục
Trong tháng, ngành giáo dục Giáo dục và Đào tạo đã tham mưu cho tỉnh hoàn thành tốt công tác quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo. Trong đó, học sinh Lào Cai tham gia các cuộc thi, sân chơi trong nước và quốc tế đạt kết quả cao, điển hình như: (1) Học sinh trường THPT Chuyên Lào Cai giành 2 huy chương bạc tại cuộc thi sáng tạo thanh niên châu á 2023; (2) Lào Cai đoạt 22 huy chương tại Giải Vô địch Taekwondo học sinh, sinh viên toàn quốc; (3) Hai học sinh Trường THPT số 1 Văn bàn đạt Huy chương vàng và Huy chương bạc giải Vô địch Đẩy gậy quốc gia lần thứ XVII tổ chức tại thị xã Cửa Lò - Nghệ An,...
Trong tháng, tổ chức các Hội nghị, Hội thảo triển khai công tác chuyên môn như: Tổ chức Hội nghị phân luồng, hướng nghiệp, tuyển sinh năm 2023; Họp Hội đồng xét tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú tỉnh Lào Cai lần thứ 16, năm 2023; Hội thi Giáo viên dạy giỏi THCS cấp tỉnh năm 2023; Tổ chức thi tuyển dụng giáo viên năm 2023; Tổ chức Hội thi Giáo viên THCS dạy giỏi cấp tỉnh năm học 2022-2023; Hội thảo ôn thi tốt nghiệp THPT môn tiếng Anh, môn Hóa học, môn Địa lý cấp tỉnh; Hội thảo cấp tỉnh đánh giá công tác triển khai KHGD nhà trường năm học 2022-2023; Tổ chức Hội thi giáo viên chủ nhiệm lớp giỏi cơ sở giáo dục phổ thông tỉnh Lào Cai năm học 2022-2023.
5.4. Văn hóa, thể thao
- Lĩnh vực văn hoá: Tiếp tục tăng cường chỉ đạo công tác quản lý nhà nước lĩnh vực văn hóa, đặc biệt các hoạt động lễ hội, tu bổ di tích, danh thắng trên địa bàn toàn tỉnh. Trong tháng, các hoạt động phục vụ văn hóa cơ sở tiếp tục được chú trọng triển khai thực hiện, cụ thể: Thực hiện tuyên truyền lưu động 205/975 buổi tại các huyện Si Ma Cai, Bát Xát, Văn Bàn,… chiếu phim lưu động phục vụ cơ sở đạt 30 buổi; tham gia 02 sự kiện văn hóa toàn quốc là Hội diễn ca khúc cách mạng tại Vĩnh Phúc; Chương trình "Sắc màu văn hóa các dân tộc Việt Nam năm 2023" tai Làng văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam; Biểu diễn Chương trình kỷ niệm 75 năm ngày truyền thống lực lượng vũ trang tỉnh Lào Cai và "Giao lưu hữu nghị Quốc tế Xuân 2023"; tham gia chương trình xúc tiến du lịch tỉnh Lào Cai tại Cần Thơ và Thành phố Hồ Chí Minh,...
- Hoạt động thể thao: Công tác xây dựng và phát triển phong trào thể dục thể thao ở cơ sở tiếp tục được duy trì, tạo nguồn vận động viên cho tuyến tỉnh cũng như bảo tồn, phát triển các môn thể thao dân tộc. Trong tháng, các VĐV tham gia thi đấu 05 giải thể thao toàn quốc gồm: Giải xe đạp nữ quốc tế Bình Dương lần thứ XIII; Giải vô địch Quốc gia marathone và cự ly dài Báo Tiền Phong; Giải vô địch các CLB Muay quốc gia năm 2022, đạt 02 HCB, 02HCĐ; Giải vô địch đẩy gậy Quốc gia đạt 01 HCV, 01HCB, 01HCĐ; tham gia thi đấu giải Vô địch Tekwondo học sinh, sinh viên toàn quốc năm 2023 tại tỉnh Thừa Thiên Huế đạt 03HCV, 06 HCB, 03HCĐ./.
[1] Trong đó có 415 lao động được vay vốn giải quyết việc làm.
[2] Trong đó 13 quyết định hỗ trợ học nghề với tổng số tiền hỗ trợ 64,5 triệu đồng.