Tình hình kinh tế - xã hội tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2024

Bước vào năm 2024, việc triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh có những thuận lợi nhưng vẫn còn không ít những khó khăn, thách thức. Với quyết tâm phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở mức cao nhất, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành tập trung thực hiện tốt các chính sách và giải pháp của Chính phủ nhằm thúc đẩy và phục hồi phát triển sản xuất kinh doanh, thực hiện tốt an sinh xã hội. Cùng với đó, UBND tỉnh đã ban hành các Chỉ thị, Chương trình, Kế hoạch, các văn bản chỉ đạo các ngành, các địa phương trong tỉnh thực hiện tốt các mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế - xã hội cả năm; trong đó, đã ban hành Chương trình số 05/CTr-UBND ngày 19/01/2024 với 12 nhóm giải pháp, nhiệm vụ cụ thể, gắn với việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 05/01/2024 của Chính phủ về nhiệm vụ giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, dự toán ngân sách nhà nước năm 2024.

Nhìn chung, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh trong Quý II và 6 tháng đầu năm cơ bản được duy trì và phục hồi: Sản xuất nông nghiệp được triển khai kịp thời, đảm bảo khung thời vụ; công tác phòng chống dịch bệnh cho gia súc gia cầm được quan tâm, đàn vật nuôi phát triển ổn định, các sản phẩm chăn nuôi đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của Nhân dân; sản xuất công nghiệp tiếp tục được duy trì; các hoạt động kinh doanh thương mại và dịch vụ có mức tăng trưởng khá; hoạt động vận tải đáp ứng tốt nhu cầu vận chuyển hàng hóa phục vụ sản xuất kinh doanh và đi lại của Nhân dân; chương trình xây dựng nông thôn mới được Nhân dân hưởng ứng tích cực; các lĩnh vực văn hóa, thông tin được thực hiện tốt; công tác an sinh xã hội được quan tâm; công tác vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh được chú trọng; công tác y tế đảm bảo tốt việc khám chữa bệnh cho người dân; an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong Quý II và 6 tháng đầu năm 2024 trên địa bàn tỉnh như sau:

1. Tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh quí II/2024 tăng 6,59% so với cùng kỳ năm 2023, tính chung 6 tháng đầu năm 2024, tốc độ tăng trưởng đạt 5,62%. (Theo số liệu ước tính được Tổng cục Thống kê công bố tại Văn bản số 1015/TCTK-TKQG, ngày 29/5/2024)

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản

Quí II và 6 tháng đầu năm 2024, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh còn gặp khó khăn do giá vật tư nông nghiệp, giá thức ăn chăn nuôi tăng cao, nguyên liệu đầu vào và cước vận chuyển tăng, trong khi giá bán sản phẩm chưa thực sự ổn định,... Tuy nhiên, với việc thực hiện tốt các chính sách về phát triển nông nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh nên tốc độ tăng trưởng Quí II ước tăng 4,23% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm tăng 3,81%, đóng góp 0,55 điểm phần trăm vào mức tăng chung của tỉnh; trong đó, sản xuất nông nghiệp tăng 3,40%, lâm nghiệp tăng 5,19%, thủy sản tăng 6,46%.

Khu vực công nghiệp và xây dựng

- Về sản xuất công nghiệp: Hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh trong Quí II và 6 tháng đầu năm tuy còn gặp những khó khăn nhất định, nhưng với lỗ lực của các cấp, các ngành, địa phương và doanh nghiệp, nhiều chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp được ban hành và phát huy hiệu quả nên sản xuất công nghiệp cơ bản được duy trì và có chuyển biến tích cực. Tốc độ tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp trong Quí II tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính 6 tháng đầu năm tăng 2,34% so với cùng kỳ, đóng góp 0,61 điểm phần trăm vào mức tăng chung (6 tháng đầu năm 2023 chỉ đạt 98,08%). Trong đó:

+ Ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng cao nhất với mức tăng 7,97%, đóng góp 0,79 điểm phần trăm vào mức tăng chung. Chủ yếu tăng ở ngành sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 108,21%; sản xuất đồ uống tăng 18,67%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 20,91%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hóa chất tăng 10,28%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 15,92%,...

+ Ngành công nghiệp khai khoáng còn gặp nhiều khó khăn do vướng mắc về công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, thuê đất, không đủ khoảng cách an toàn nổ mìn, không đủ diện tích đổ thải, hạn chế về công nghệ sản xuất vì vậy đã ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch sản xuất, 6 tháng đầu năm tăng trưởng đạt 98,08% (-0,92%) so với cùng kỳ năm trước, làm giảm 0,06 điểm phần trăm vào mức tăng chung.

+ Ngành sản xuất và phân phối điện, tuy trong kỳ có thêm nhà máy thuỷ điện Móng Sến (6 MW); Nhà máy Bảo Nhai Bậc 1 (14MW) đã đi vào hoạt động chính thức phát điện lưới quốc gia và 01 dự án thủy điện Nậm Lúc hoàn thiện nâng công suất (từ 20MW lên 24MW) nâng tổng số dự án đã hoàn thành phát điện trên địa bàn tỉnh lên 74 dự án (tổng công suất lắp máy 1.162,85MW), nhưng do không đảm bảo được nguồn nước để duy trì công suất phát điện nên tốc độ chỉ đạt 98,81% (-1,19%) so với cùng kỳ năm trước, làm giảm 0,11 điểm phần trăm vào mức tăng chung.

- Hoạt động xây dựng: Hoạt động xây dựng trong quí II đã có dấu hiệu khởi sắc khi đạt mức tăng trưởng 12,96% so với cùng kỳ, thể hiện sự vào cuộc của các cấp, các ngành trong việc giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản và đẩy nhanh tiến độ một số công trình trọng điểm của tỉnh. Tính chung 6 tháng đầu năm tăng trưởng đạt 10,08%, đóng góp 0,79 điểm phần trăm vào mức tăng chung, cao hơn mức tăng 8,52% của 6 tháng đầu năm 2023.

Khu vực dịch vụ

Quí II và 6 tháng đầu năm 2024, hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch trên địa bàn tỉnh diễn ra khá sôi động. Trong kỳ, có chuỗi ngày nghỉ Tết, nghỉ Lễ dài ngày, chuỗi các sự kiện được tổ chức thu hút đông đảo du khách đến với Lào Cai; nhiều lĩnh vực tăng trưởng khá, đặc biệt là hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ lưu trú, ăn uống, hoạt động kinh doanh vận tải; cửa khẩu quốc tế Lào Cai thông quan ổn định, mở ra cơ hội thuật lợi trong xuất nhập khẩu hàng hóa cho người dân và doanh nghiệp. Hàng hóa với mẫu mã, chủng loại đa dạng và phong phú đảm bảo đáp ứng tốt cho nhu cầu tiêu dùng của người dân và du khách, giá cả tương đối ổn định không có hiện tượng tăng giá đột biến.

Tốc độ tăng trưởng Quí II đạt mức 8,01% so với cùng kỳ; 6 tháng đầu năm tăng 7,51%, đóng góp 3,06 điểm điểm phần trăm vào mức tăng chung. Một số ngành có mức tăng trưởng khá như: Ngành thương mại tăng 12,14%; vận tải tăng 9,67%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 16,83%; Hoạt động tài chính, ngân hàng tăng 6,22%; Hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 8,43%; Hoạt động dịch vụ khác tăng 17,20%…

 

2. Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm

2.1. Tài chính

Tổng thu ngân sách Nhà nước đến thời điểm 17/6/2024 ước đạt 3.991,33 tỷ đồng, bằng 31,18% dự toán năm; ước thực hiện đến 30/6/2024 đạt 4.628 tỷ đồng, bằng 50,4% dự toán Trung ương giao, bằng 36,2% dự toán tỉnh giao và tăng 37,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:

- Thu nội địa ước đạt 4.020 tỷ đồng, bằng 38,3% dự toán tỉnh giao, tăng 35,4% so với cùng kỳ năm trước, gồm: Thu từ thuế, phí và thu khác ước đạt 3.009 tỷ đồng, bằng 41,8% dự toán tỉnh giao, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước. Thu tiền sử dụng đất ước đạt 1.011 tỷ đồng, bằng 30,6% dự toán tỉnh giao và tăng 4,25 lần so với cùng kỳ năm 2023;

- Thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu ước đạt 608 tỷ đồng, bằng 26,4% dự toán tỉnh giao và tăng 57% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng chi ngân sách Nhà nước lũy kế đến hết tháng 6/2024 ước đạt 11.859 tỷ đồng, bằng 69,9% dự toán Trung ương giao, bằng 63,3% dự toán tỉnh giao và tăng 24,2% so với cùng kỳ năm 2023.

2.2. Ngân hàng

Ngân hàng Nhà nước Việt nam Chi nhánh tỉnh Lào Cai tiếp tục chỉ đạo các ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn chủ động tăng cường huy động vốn, tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng kinh tế, ưu tiên đầu tư cho các chương trình, dự án kinh tế trọng điểm thuộc 18 Đề án trọng tâm của tỉnh, phục vụ phát triển nông nghiệp hàng hóa, cho vay xây dựng nông thôn mới, tín dụng ưu đãi, tín dụng chính sách, cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, đảm bảo an toàn vốn vay và tuân thủ quy định pháp luật liên quan, hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro; giảm nợ xấu. Đẩy mạnh thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ của ngành ngân hàng đối với khách hàng, nhất là chính sách hỗ trợ tín dụng, chương trình tín dụng ưu đãi, tín dụng chính sách; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chương trình kết nối Ngân hàng - Doanh nghiệp; chương trình cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ theo Nghị quyết 33/NQ-CP; cho vay lĩnh vực lâm sản, thủy sản theo gói tín dụng 30.000 tỷ đồng và các chương trình tín dụng khác.

Các ngân hàng, tổ chức tín dụng đã bám sát chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt nam, thực hiện nghiêm quy định về lãi suất huy động và cho vay hỗ trợ khách hàng. Đến ngày 20/6/2024, mặt bằng lãi suất huy động đã giảm từ 0,6%/năm - 1,0%/năm; lãi suất cho vay giảm khoảng 0,5%/năm - 1,5%/năm so với cuối năm 2023.

Tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn đến ngày 30/6/2024 ước đạt 48.215 tỷ đồng, tăng 4,5% so với cuối năm 2023, đáp ứng được khoảng 82,7% nhu cầu tín dụng trên địa bàn. Doanh số cho vay 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 51.077 tỷ đồng; doanh số thu nợ ước đạt 47.877 tỷ đồng; doanh số cho vay và thu nợ có cùng mức tăng 8,7% so với cùng kỳ năm 2023. Tổng dư nợ cho vay đạt 58.800 tỷ đồng, tăng 5,75% so với cuối năm 2023. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ đảm bảo an toàn, ở mức dưới 1%.

2.3. Bảo hiểm

Tính đến ngày 15/6/2024, toàn tỉnh có 61.755 người tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm 2023; 9.193 người tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện tăng 7,56%; 53.693 người tham gia Bảo hiểm thất nghiệp tăng 1,73%. Ước 6 tháng đầu năm, tỷ lệ tham gia Bảo hiểm xã hội đạt 17,8% so với lực lượng lao động trong độ tuổi, tỷ lệ tham gia Bảo hiểm thất nghiệp đạt 13,1%.

3. Chỉ số giá

3.1. Chỉ số giá tiêu dùng

Trong 6 tháng đầu năm 2024, thị trường hàng hóa trên địa bàn tỉnh chịu tác động đan xen bởi nhiều yếu tố. Thời điểm trước, trong và sau Tết Nguyên đán Giáp Thìn, tình hình cung cầu diễn ra sôi động theo quy luật hàng năm, tuy nhiên lượng hàng hóa phong phú, không khan hiếm hàng, đáp ứng đủ nhu cầu của người dân nên thị trường hàng tiêu dùng tương đối ổn định. Bên cạnh đó, ngoài ảnh hưởng do biến động của các mặt hàng điện, nước sinh hoạt, vật liệu xây dựng và thực phẩm, giá học phí giảm khi các trường thực hiện thu học phí mới theo Nghị quyết số 33/2023/NQ-HĐND ngày 08 tháng 12 năm 2023 của Hội đồng Nhân dân tỉnh Lào Cai là yếu tố làm hạn chế tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2024 so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Sáu tăng 0,34% so tháng trước và tăng 1,83% so với cùng tháng năm trước. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính của tháng Sáu, có 2 nhóm tăng giá, 3 nhóm giảm giá và 6 nhóm giữ giá ổn định so với tháng trước.

- Nhóm có chỉ số ổn định: Nhóm đồ uống và thuốc lá; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép; nhóm thuốc và dịch vụ y tế; nhóm bưu chính viễn thông; nhóm giáo dục; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch (CPI=100).

- Các nhóm có chỉ số tăng: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,64%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,12%.

- Nhóm có chỉ số giảm: Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,05%; nhóm giao thông giảm 1,49%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,1%.

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý II năm 2024 tăng 1,95% so với cùng kỳ năm 2023; CPI bình quân 6 tháng đầu năm 2024 tăng 1,59% so với bình quân cùng kỳ năm 2023. Các yếu tố chính làm tăng CPI trong 6 tháng đầu năm 2024: (1) Giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,57%, nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,12%, nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,03% so với cùng kỳ năm trước, do chi phí đầu vào tăng, nhà sản xuất cũng như các cơ sở tăng giá bán, đồng thời nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng làm giá các mặt hàng thuộc các nhóm trên tăng; (2) Nhóm nhà ở, điện nước và vật liệu xây dựng tăng 2,06% so với cùng kỳ năm trước do giá các mặt hàng xi măng, sắt, thép, cát tăng theo giá nguyên vật liệu đầu vào cũng như nhu cầu thị trường tăng; (3) Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 9,28% so với cùng kỳ năm trước do giá dịch vụ y tế giảm theo thông tư mới của Bộ Y tế; (4) Giá nhóm giao thông tăng 1,54% so với cùng kỳ năm trước theo các đợt điều chỉnh giá của Bộ Công Thương dưới sự ảnh hưởng của thị trường trong nước và quốc tế; (5) Giá hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,15% so với cùng kỳ năm trước chủ yếu do giá các mặt hàng đồ trang sức và dịch vụ chăm sóc cá nhân tăng do ảnh hưởng của giá vàng và nhu cầu tiêu dùng của người dân; (6) Giá nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,28% so với cùng kỳ năm trước do phí truyền hình, internet và các mặt hàng hoa, cây cảnh, dịch vụ du lịch tăng.

Bên cạnh các nguyên nhân làm tăng CPI, có các yếu tố góp phần làm giảm CPI trong 6 tháng đầu năm 2024 so với cùng kỳ năm trước như: (1) Chỉ số giá nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,05% so với cùng kỳ năm trước, do các cơ sở giảm giá theo các chương trình khuyến mại để kích cầu người tiêu dùng; (2) Chỉ số giá nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,27% so với cùng kỳ năm trước, do giá các điện thoại thế hệ cũ giảm; (3) Chỉ số giá nhóm giáo dục giảm 7,80% so với cùng kỳ năm trước do các cơ sở giáo dục thực hiện thu học phí theo Quyết định mới của Ủy ban nhân dân tỉnh.

3.2. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ

Giá vàng bình quân tháng Sáu là 5.595.983 đồng/chỉ, giảm 0,86%; giá đô la Mỹ bình quân là 23.531 đồng/1 USD, tăng 0,09% do ảnh hưởng của thị trường trong nước và thế giới.

4. Đầu tư và xây dựng

4.1. Đầu tư phát triển

Tổng nguồn vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn theo giá hiện hành dự ước quí II năm 2024 đạt 8.168,59 tỷ đồng, so với quý trước tăng 33,15%, so với cùng kỳ năm trước tăng 20,70%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, tổng vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh ước đạt 14.303,59 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 11,60%. Trong đó, vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước đạt 2.337,77 tỷ đồng, chiếm 16,34% tổng vốn và bằng 68,48% cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 11.950,61 tỷ đồng, chiếm 83,55% và tăng 27,11%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 0,15 tỷ đồng, chiếm 0,11% tổng vốn.

Để phát huy hiệu quả cao nhất nguồn vốn đầu tư, tỉnh Lào Cai đã thực hiện quyết liệt, đồng bộ nhiều giải pháp với quan điểm đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của tỉnh trong năm 2024, nhằm thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chỉ đạo kịp thời tháo gỡ khó khăn vướng mắc và động viên, đôn đốc các nhà thầu đẩy nhanh tiến độ thi công và hoàn thiện các thủ tục pháp lý, nghiệm thu khối lượng hoàn thành để đủ điều kiện thanh toán cho các nhà thầu theo đúng quy định. Tổng kế hoạch vốn đầu tư công năm 2024 đã giao theo các Nghị quyết HĐND tỉnh là 6.503 tỷ đồng (bao gồm cả vốn năm 2023 được phép kéo dài sang năm 2024); giá trị giải ngân ước thực hiện 6 tháng đầu năm đạt 2.472 tỷ đồng, bằng 38,01% kế hoạch, Lào Cai thuộc nhóm các tỉnh có tỷ lệ giải ngân cao của cả nước và vùng Trung du Miền núi phía Bắc.

Về tình hình thu hút, đầu tư: Thu hút đầu tư trên địa bàn được đẩy mạnh, triển khai nhiều cơ chế, chính sách để thu hút đầu tư, tuy nhiên kết quả chưa đạt được như kỳ vọng. Trong 6 tháng đầu năm, UBND tỉnh cấp quyết định chủ trương đầu tư cho 07 dự án đầu tư trong nước (chủ yếu lĩnh vực nông nghiệp và xây dựng) với tổng vốn 3.312 tỷ đồng[1]. Cấp mới Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 02 dự án FDI, luỹ kế có 28 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt 730,37 triệu USD; các dự án chủ yếu tập trung ở các lĩnh vực công nghiệp khai thác, chế biến, du lịch - dịch vụ, các dự án thuộc lĩnh vực nông lâm nghiệp thủy sản chiếm tỷ lệ thấp, quy mô nhỏ; các dự án FDI tập trung chủ yếu tại các Khu công nghiệp, thị xã Sa Pa, huyện Văn Bàn là các địa phương có nhiều lợi thế phát triển công nghiệp, du lịch.

4.2. Hoạt động xây dựng

Hoạt động xây dựng dựng trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2024 cơ bản duy trì và phát triển; các đơn vị thi công, chủ đầu tư chủ động đẩy nhanh thực hiện các công trình/dự án chuyển tiếp đảm bảo tiến độ; hoàn thiện thủ tục hồ sơ để công trình/dự án đã phê duyệt được khởi công đúng theo hợp đồng thi công, nhiều hạng mục công trình sử dụng vốn nhà nước cũng như của các doanh nghiệp, dân cư đã được triển khai thực hiện.

Công tác quy hoạch được quan tâm; tỉnh tập trung triển khai các quy hoạch đã được phê duyệt nhằm tạo sự thống nhất trong điều hành, là công cụ để phân bổ nguồn lực và huy động các nguồn lực của xã hội cho đầu tư phát triển. Hoàn thành việc xây dựng Quy hoạch chung xây dựng khu kinh tế cửa khẩu tỉnh Lào Cai, Điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng thành phố Lào Cai; Quy hoạch xây dựng vùng huyện Bảo Yên; Quy hoạch các khu chức năng như khu công nghiệp Võ Lao, khu công nghiệp Cốc Mỳ; khu đô thị hỗn hợp sân bay; các khu vực không gian công cộng, công viên cây xanh... Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình trọng điểm như: Hoàn thiện thủ tục để lựa chọn nhà đầu tư, triển khai xây dựng Cảng Hàng không Sa Pa; khởi công xây dựng cầu Bản Vược; Các công trình: Hạ tầng kỹ thuật, Trụ sở làm việc các cơ quan hành chính thị xã Sa Pa, huyện Bảo Thắng và Hệ thống các bệnh viện tuyến huyện (Văn Bàn, Bát Xát...), Phân hiệu Đại học Thái Nguyên (giai đoạn 2), Trường Chuyên Lào Cai. Đồng thời, tích cực phối hợp với Uỷ ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và VEC trong việc thực hiện nâng cấp 4 làn xe đường cao tốc đoạn Yên Bái - Lào Cai; đường sắt kết nối ga Lào Cai với ga Hà Khẩu Bắc,...

5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

5.1. Tình hình đăng ký kinh doanh

Trong tháng Sáu, đã thực hiện cấp giấy chứng nhận đăng ký mới cho 35 doanh nghiệp và 03 đơn vị trực thuộc, tổng vốn đăng ký đạt 254 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024, thực hiện cấp giấy chứng nhận đăng ký mới cho 286 doanh nghiệp và 19 đơn vị trực thuộc, tăng 14,3% so với cùng kỳ; tổng vốn đăng ký đạt 2.080,5 tỷ đồng. Số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động là 519 doanh nghiệp, tăng 35,1% so với cùng kỳ; giải thể 40 doanh nghiệp, giảm 7%; hoạt động trở lại 175 doanh nghiệp, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2023.

5.2. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

Qua kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp (DN) trên địa bàn tỉnh Lào Cai, đối với ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý II/2024 cho thấy: Có 26,32% số DN đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh (SXKD) quý II năm 2024 tốt hơn quý trước; 31,58% số DN đánh giá gặp khó khăn và 42,11% số DN cho rằng tình hình SXKD ổn định. Dự kiến quý III/2024 so với quý II/2024 chỉ có 18,42% số DN đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 13,16% số DN dự báo khó khăn hơn và có tới 68,42% số DN cho rằng tình hình SXKD sẽ ổn định. Từ kết quả trên cho thấy các DN đã phần nào ổn định được sản xuất.

Về khối lượng sản xuất: Có 28,95% số DN đánh giá khối lượng sản xuất quý II năm 2024 tăng so với quý I/2024; 31,58% số DN dự báo giảm và 39,47% số DN cho rằng ổn định. Xu hướng quý III/2024 so với quý II/2024, có 18,42% DN dự báo khối lượng sản xuất tăng lên; 18,42% số DN dự báo giảm và có 63,16% số DN cho rằng ổn định. Xu hướng sản xuất 6 tháng tiếp theo so với 6 tháng đầu năm, có 31,58% DN dự báo khối lượng sản xuất tăng lên; 13,16% số DN dự báo giảm và 55,26% số DN dự báo ổn định. Như vậy qua dự kiến SXKD cho thấy hầu hết các DN sản xuất công nghiệp trong tỉnh tuy còn nhiều khó khăn do ảnh hưởng của thời tiết, thiếu nguyên liệu đầu vào, dây truyền sản xuất bị trục trặc, giải phóng mặt bằng,... nhưng đã tập trung vào kế hoạch sản xuất trong quý II/2024 và nhất là 6 tháng cuối năm, để đảm bảo cho việc tăng sản lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Về đơn đặt hàng: Có 24,24% số DN có đơn đặt hàng quý II/2024 cao hơn quý I/2024; 33,33% số DN có đơn đặt hàng giảm và 42,42% số DN có đơn đặt hàng ổn định. Xu hướng quý III/2024 so với quý II/2024 cũng không khả quan hơn, với chỉ 14,71% số DN dự kiến có đơn hàng tăng lên; có tới 58,82% số DN dự kiến có đơn hàng ổn định và có 26,47% số DN dự kiến đơn hàng giảm. Về xu hướng 6 tháng tiếp theo so với 6 tháng đầu năm với 26,47% số DN dự kiến có đơn hàng tăng lên; 50% số DN dự kiến có đơn hàng ổn định và có 23,53% số DN dự kiến đơn hàng giảm.

Về tồn kho sản phẩm: Có 21,05% số DN có lượng tồn kho quý II/2024 tăng so với quý trước; 36,84% số DN có lượng tồn kho giảm và 42,11% số DN giữ ổn định. Xu hướng quý III/2024 so với quý II/2024, chỉ có 15,79% số DN dự báo lượng hàng tồn kho sẽ tăng; 26,32% số DN cho rằng lượng hàng tồn kho giảm và 57,89% số DN dự báo giữ ổn định, như vậy các DN đã tuy đã lỗ lực tìm đầu ra cho sản phẩm sản xuất để ổn định và duy trì quy mô SXKD của DN, nhưng tình hình thực tế vẫn rất khó khăn cho kế hoạch sản xuất của các DN trong năm 2024 .

Về giá bán bình quân trên một đơn vị sản phẩm: Có 18,42% số DN cho biết có giá bán bình quân trên một đơn vị sản phẩm quý II/2024 tăng so với quý trước; chỉ có 2,63% số DN cho biết giá bán bình quân thấp hơn và có tới 78,95% số DN đánh giá giá bán bình quân ổn định. Dự kiến giá bán bình quân trên một đơn vị sản phẩm quý III/2024 so với quý II/2024, có 15,79% số DN dự báo giá bán bình quân trên một đơn vị sản phẩm sẽ cao hơn; 84,21% số DN dự báo giá bán bình quân ổn định; không có DN nào dự báo giá bán thấp hơn.

Về sử dụng lao động: Quý II/2024 so với quý trước, có 4,26% số DN khẳng định quy mô lao động tăng; 13,16% số DN khẳng định giảm và 81,58% số DN cho biết quy mô lao động ổn định. Dự kiến quý III/2024 so với quý II/2024, chỉ có 5,26% số DN dự báo quy mô lao động tăng; 81,58% số DN cho rằng sẽ ổn định; 13,16% số DN dự báo sẽ giảm số lao động hiện có. Về xu hướng 6 tháng tiếp theo so với 6 tháng đầu năm với 7,89% số DN dự kiến quy mô lao động tăng và 84,21% số DN cho rằng sẽ giữ ổn định; chỉ có 7,89% số DN dự báo giảm số lao động hiện có.

Các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh: Trong các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến SXKD của DN trong quý II/2024, có 73,68% DN cho rằng do nhu cầu thị trường trong nước thấp là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động SXKD của DN; 44,74% DN cho rằng khả năng cạnh tranh cao của hàng trong nước; 23,68% DN cho rằng gặp khó khăn về tài chính; 31,58% DN cho rằng thiếu nguyên, nhiên vật liệu để sản xuất; 21,05% DN cho rằng lãi suất vay vốn cao; còn các nguyên nhân khác chiếm tỷ lệ dưới 16%.

6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

6.1. Sản xuất nông nghiệp

a) Trồng trọt

- Cây hàng năm

+ Cây lúa: Sơ bộ diện tích vụ xuân toàn tỉnh đạt 9.849,22 ha, giảm 0,75% so với cùng kỳ năm 2023. Hiện nay, lúa trà sớm đang thu hoạch; trà muộn đang ngậm sữa, chắc xanh. Tính đến ngày 15/6/2024, diện tích lúa đã thu hoạch là 6.242 ha, đạt 63,38% diện tích gieo trồng. Năng suất sơ bộ đạt 61,34 tạ/ha, tăng 1,36 tạ/ha so với cùng kỳ; sản lượng sơ bộ đạt 60.418 tấn, tăng 1,51%. Mặc dù các địa phương đã chủ động chỉ đạo phòng trừ sâu bệnh hại cây trồng nhưng do thời tiết nóng ẩm nên tình hình sâu bệnh vẫn xảy ra rải rác ở một số địa phương, diện tích lúa bị nhiễm bệnh là 991,5 ha. Những diện tích bị nhiễm đã được các cơ quan chuyên môn hướng dẫn phòng trừ kịp thời, không để lây lan trên diện rộng.

+ Cây ngô: Diện tích gieo trồng vụ đông xuân sơ bộ đạt 11.471,4 ha, giảm 1,59% so với cùng kỳ năm trước. Thời điểm này, trà sớm đã cho thu hoạch, trà muộn đang trỗ cờ, phun râu; tính đến ngày 15/6/2024, diện tích đã thu hoạch là 2.920 ha. Năng suất sơ bộ đạt 43,5 tạ/ha, tăng 5,45 tạ/ha so với cùng kỳ năm trước, do trong giai đoạn gieo trồng và sinh trưởng, nhất là giai đoạn trỗ cờ, phun râu thời tiết thuận lợi, mưa nắng đan xen đã tạo điều kiện cho cây ngô phát triển tốt. Sản lượng sơ bộ đạt 49.905 tấn, so với cùng kỳ tăng 12,49%.

+ Cây khoai lang: Diện tích gieo trồng vụ đông xuân đạt 338,19 ha, bằng 82,22% cùng kỳ năm trước; sản lượng sơ bộ đạt 2.492,15 tấn, bằng 89,74% cùng kỳ năm 2023.

+ Cây lạc: Diện tích gieo trồng đạt 631,2 ha, tăng 16,57% so với cùng kỳ năm 2023; sản lượng thu hoạch ước đạt 1.069,65 tấn, tăng 16,68%.

+ Rau, đậu các loại: Hiện nay, bà con đang tập trung chăm sóc và thu  hoạch cây rau vụ xuân. Diện tích rau các loại vụ đông xuân sơ bộ đạt 7.624,17 ha, giảm 0,37% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng rau các loại ước đạt 105.285,66 tấn, giảm 0,37% so với cùng kỳ năm trước do diện tích gieo trồng giảm.

Cùng với việc thu hoạch cây trồng vụ đông xuân, các địa phương trong tỉnh đang tiến hành làm đất gieo trồng cây vụ mùa. Diện tích gieo cấy lúa vụ mùa lũy kế đạt 9.015 ha, tăng 2,49% so với cùng kỳ. Hiện nay cây lúa đang sinh trưởng và phát triển, trà sớm đẻ nhánh - đẻ nhánh rộ; trà sau đang hồi xanh. Diện tích ngô vụ mùa sớm ở vùng cao đến nay đã trồng được 13.181 ha, tăng 1,86% so với cùng kỳ; trà sớm đang trong giai đoạn trỗ cờ, phát triển bắp, trà sau đang xoáy nõn, trỗ cờ.

- Cây lâu năm

+ Cây chuối: Diện tích ước đạt 2.395 ha, bằng 69,66% cùng kỳ năm 2023; sản lượng thu hoạch 6 tháng đầu năm sơ bộ đạt 19.985 tấn, bằng 53,81% cùng kỳ năm trước, diện tích và sản lượng giảm là do cuối năm 2023 chuối bị bệnh panama và hiện chưa phục hồi được diện tích bị thiệt hại.

+ Cây Dứa: Diện tích ước đạt 2.340 ha, tăng 11,22% so với cùng kỳ năm 2023; sản lượng thu hoạch 6 tháng đầu năm đạt 33.032 tấn, tăng 40,83%, do tỉnh Lào Cai đưa giống dứa Quen vào trồng trái vụ nên thời gian thu hoạch sớm hơn các năm trước.

- Cây chè: Diện tích chè hiện có 7.987 ha, tăng 6,69% so với cùng kỳ năm 2023; sản lượng thu hoạch 6 tháng đầu năm ước đạt 26.338 tấn, tăng 6,89%, tăng do diện tích cho sản phẩm tăng. Diện tích chè tăng so với cùng kỳ là do tỉnh tiếp tục đưa một số giống chè có năng suất cao vào trồng tại một số địa phương nhằm mở rộng diện tích chè chất lượng cao.

b) Chăn nuôi

- Đàn trâu hiện có ước tính 101 nghìn con, giảm 3,18% so với cùng kỳ năm trước. Số con xuất chuồng 6 tháng đầu năm ước đạt 6,09 nghìn con, so với cùng kỳ giảm 2,5%; sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 1.462 tấn, tăng 2,53%.

- Đàn bò hiện có ước tính 23,55 nghìn con, so với cùng kỳ năm trước tăng 1,57%. Số con xuất chuồng 6 tháng đầu năm ước đạt 1,91 nghìn con, so với cùng kỳ năm trước tăng 2,3%; sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 365 tấn, tăng 2,82%.

- Đàn lợn hiện có là 405,49 nghìn con, so với cùng kỳ năm trước tăng 3,64%. Số con xuất chuồng ước đạt 356,45 nghìn con, tăng 4,16%; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng ước đạt 29.569 tấn, tăng 4,84%; trọng lượng lợn xuất chuồng bình quân đạt 82,96 kg/con. Đàn lợn tăng ở hầu hết các địa phương, sau khi dịch bệnh ổn định, các địa phương tích cực tái đàn trở lại; tuy nhiên, giá lợn giống cao, thức ăn chăn nuôi cũng tăng đang làm hạn chế khả năng tái đàn.

- Đàn gia cầm hiện có là 6.526 nghìn con, so với cùng kỳ năm trước tăng 2,1%. Trong đó, đàn gà ước có 5.881 nghìn con, so với cùng kỳ năm trước tăng 5,39%; sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 11.004 tấn, tăng 5,67%. Sản lượng trứng gia cầm 6 tháng đầu năm đạt 37.420 nghìn quả, so với cùng kỳ năm trước tăng 4,37%; trong đó, trứng gà đạt 34.380 ngìn quả, tăng 4,76%.

- Phòng chống dịch bệnh: Công tác phòng chống dịch bệnh trên đàn vật nuôi được triển khai quyết liệt, dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm cơ bản được kiểm soát. Sáu tháng đầu năm, triển khai tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm được được 1.142,5 nghìn liều, tăng 1,7% so với kế hoạch kỳ I năm 2024. Công tác phòng chống dịch bệnh được các địa phương quan tâm thực hiện, tuy nhiên trong tháng Năm đã xuất hiện dịch bệnh Lở mồm long móng trâu, bò xảy ra tại 29 hộ/06 thôn/03 xã thuộc huyện Văn Bàn làm 59 con trâu, bò mắc bệnh; bệnh Tụ huyết trùng trâu, bò xảy ra tại 11 hộ/01 thôn/01 xã của huyện Văn Bàn làm 25 con trâu, bò mắc bệnh, trong đó có 09 con bị chết.

6.2. Lâm nghiệp

- Tình hình sản xuất: Sáu tháng đầu năm, tình hình sản xuất lâm nghiệp ổn định và phát triển; công tác trồng, chăm sóc rừng được quan tâm. Hiện nay nhiều hộ gia đình đã có thu nhập bền vững từ rừng, đã tạo thành vùng hàng hóa tập trung như: Quế, Trẩu, Bồ Đề, Mỡ, Keo, Thông...; đã hình thành các sản phẩm Lâm nghiệp có giá trị kinh tế cao như ván dán, ván ghép thanh, viên nén mùn cưa,... ngoài ra, còn có nhiều lâm sản ngoài gỗ khác như tinh dầu quế, quế thanh, quế ống điếu, nhựa cánh kiến trắng,...

+ Công tác phát triển rừng: Tháng Sáu, diện tích trồng mới được 425 ha, lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 toàn tỉnh đã trồng mới được 1.510 ha, so với cùng kỳ năm trước giảm 30,8%, giảm do kế hoạch trồng rừng năm 2024 giảm. Số cây trồng phân tán 6 tháng đầu năm đạt 2.174 nghìn cây, tăng 37,42% so với cùng kỳ năm 2023.

+ Sản lượng gỗ khai thác tháng Sáu đạt 11.557 m3, lũy kế đạt 71.137 m3, so với cùng kỳ năm trước tăng 3,82%; sản lượng củi khai thác trong tháng ước đạt 10.123 ste, lũy kế đạt 200.843 ste, tăng 2,49% so với cùng kỳ năm trước.

- Quản lý bảo vệ rừng: Tăng cường kiểm tra bám sát cơ sở, hướng dẫn người dân canh tác nương rẫy an toàn; tổ chức các buổi tuyên truyền lưu động đặc biệt trong những ngày nắng nóng khô hanh kéo dài; hướng dẫn Nhân dân thực hiện các biện pháp kỹ thuật về bảo vệ, phát triển rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng… Tuy nhiên, 6 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 12 vụ cháy rừng, thiệt hại 36,352 ha (10,79 ha rừng trồng và 25,562 ha rừng tự nhiên).

6.3. Thuỷ sản

Diện tích nuôi trồng thủy sản được duy trì và ổn định, các địa phương trong tỉnh đang tập trung thu hoạch và chăm sóc đàn cá; tập trung chỉ đạo sản xuất theo kế hoạch, tăng cường công tác quản lý giống thuỷ sản trên địa bàn; hướng dẫn Nhân dân tu sửa, nạo vét ao, khử trùng đảm bảo các yêu cầu vệ sinh cho việc nuôi thả mới. Sơ bộ 6 tháng đầu năm 2024, sản lượng thuỷ sản đạt 5.465,65 tấn, so với cùng kỳ năm trước tăng 6,99%. Trong đó, sản lượng khai thác đạt 13,5 tấn, so với cùng kỳ năm trước giảm 11,76%; sản lượng nuôi trồng đạt 5.452 tấn, tăng 7,04%. Sản phẩm thủy sản của tỉnh chủ yếu một số loại cá như: Cá trắm, cá chép, cá rô phi đơn tính,... và một số cá nước lạnh như cá tầm, cá hồi.

7. Sản xuất công nghiệp

- Chỉ số sản xuất công nghiệp: Chỉ số IIP toàn ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh tháng 6 năm 2024 tăng 12,75% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, tăng mạnh nhất là ngành công nghiệp khai khoáng vowus mức tăng 23,82% (tăng chủ yếu ở ngành khai khoáng khác tăng 32,03%, do doanh nghiệp tăng đơn đặt hàng); tiếp đến là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 12,82%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,61% (do trong kỳ có những đợt mưa lớn kéo dài bổ sung nguồn nước cho các Nhà máy thuỷ điện đảm bảo công suất phát điện); ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,97% so với cùng kỳ.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, chỉ số IIP tăng 7,35% so với cùng kỳ năm trước. Trong các ngành công nghiệp, ngành công nghiệp khai khoáng tăng 7,24%, đóng góp 2,59 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,74%, đóng góp 3,54 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,88%, đóng góp 1,17 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,73%, đóng góp 0,04 điểm phần trăm.

Trong các ngành sản xuất công nghiệp của tỉnh; xét theo ngành cấp 2, hầu hết các ngành có chỉ số sản xuất 6 tháng đầu năm 2024 tăng so với cùng kỳ như: Ngành khai khoáng quặng kim loại tăng 9,6%, chủ yếu khai thác quặng sắt tăng 42,89%, quặng đồng tăng 8,24%, do các DN trong lĩnh vực này đang duy trì sản xuất ổn định theo kế hoạch và tăng đơn hàng; ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 90,13%; sản xuất đồ uống tăng 19,63%; dệt tăng 55,47%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 5,25%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 12,42%, tăng chủ yếu ở các DN sản xuất axit sunfuric, axit photphoric và sản xuất phân bón DAP,...; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 195,67%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 15,35% (do tăng nhu cầu của ngành xây dựng, chủ yếu là sản xuất bê tông tươi tăng 30,9%); sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 4,48%; sản xuất và phân phối điện tăng 3,88% do trong kỳ trên địa bàn tỉnh có các đợt mưa lớn kéo dài bổ sung lượng nước đảm bảo duy trì công suất phát điện; ngành khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 4,27%;... Tuy nhiên, có 03 ngành có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ năm trước gồm: Ngành sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 91,68% do không tiêu thụ được sản phẩm, đơn hàng giảm; in, sao chép bản ghi các loại giảm 74,63% do giảm đơn hàng; sản xuất kim loại giảm 11,62% do nguyên liệu đầu vào giảm.

- Sản phẩm công nghiệp chủ yếu: Sáu tháng đầu năm 2024 một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng so với cùng kỳ như: Quặng sắt tăng 42,89%; quặng đồng tăng 8,24%; quặng Apatit tăng 3,06%; tinh bột sắn tăng 139,97%; nước tinh khiết tăng 11,48%; dịch vụ sản xuất các hàng dệt khác chưa được phân vào đâu tăng 55,47%; ván ép từ gỗ tăng 6,0%; in khác tăng 21,85%; phốt pho vàng tăng 11,38%; axit sunfuric tăng 15,19%; axit photphoric tăng 6,0%; DCP tăng 25,4%; phân bón DAP tăng 38,48%; phân lân nung chảy tăng 86,69%; dược phẩm khác (cao atiso) tăng 195,67%; bê tông tươi tăng 31,62%; thùng, bể chứa và các vật bằng sắt thép có dung tích >300 lít tăng 63,01%; điện sản xuất tăng 8,19%; nước uống được tăng 4,27%. Bên cạnh đó một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ như: Quặng Felspar giảm 26,7%; Dứa đóng hộp giảm 83,84%; gỗ xẻ giảm 88,89%; giấy đế giảm 91,68%; dịch vụ phụ thuộc liên quan đến in giảm 75,73%; Supe Photphat (P2O5) giảm 22,73%; phân bón NPK giảm 14,48%; gạch xây dựng giảm 3,11%; vàng chưa gia công giảm 11,74%; đồng ka tốt giảm 11,6%; cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép giảm 66,31%; sản phẩm bi, bánh răng, hộp số, các bộ phận điều khiển và chuyển động giảm 100%; điện thương phẩm giảm 5,92%. Nhìn chung các sản phẩm có chỉ số giảm so với cùng kỳ là do trong kỳ một số DN phải tạm ngừng sản xuất do sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị, tái cơ cấu DN, nâng cấp dây chuyền sản xuất, xử lý hệ thống xả thải,... Ngoài ra còn do một số yếu tố khách quan như: Khó khăn trong giải phóng mặt bằng, khâu tiêu thụ, thiếu nguyên liệu đầu vào, nguyên liệu không đảm bảo chất lượng, ảnh hưởng đến môi trường,...

- Chỉ số tiêu thụ sản phẩm: Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tháng 6/2024 so với tháng trước bằng 93,08%; so với cùng kỳ năm trước bằng 95,73%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, chỉ số tiêu thụ ngành chế biến, chế tạo bằng 99,27% so với cùng kỳ năm trước; một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm sâu đã tác động giảm chỉ số tiêu thụ chung toàn ngành như: Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 69,02%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 24,52%; sản xuất sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 1,77%; sản xuất kim loại giảm 11,11%;... nguyên nhân giảm chủ yếu do trong kỳ các DN nghỉ lễ, tết dài ngày và do một số DN tập trung sửa chữa, bảo dưỡng máy móc, thiết bị hoặc chậm tiêu thụ do đơn hàng giảm,... Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 135,71%; sản xuất đồ uống đồ uống tăng 18,44%; in sao chép bản ghi các loại tăng 21,87%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 13,85%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 25,8%,...

 - Chỉ số tồn kho: Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/6/2024 dự ước giảm 5,6% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó, các ngành có chỉ số tồn kho giảm sâu tác động đến giảm chỉ số tồn kho toàn ngành như: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 63,45%; sản xuất kim loại giảm 59,77%;... Tuy nhiên, vẫn còn một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao: Sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 25,98%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 208,72%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 55,62%;... Nguyên nhân chỉ số tồn kho của một số sản phẩm tăng cao do giảm đơn giá xuất kho hoặc một số DN gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ,...

Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân 6 tháng năm 2024 là 80,25%. Tuy nhiên một số ngành có tỷ lệ tồn kho quá cao như, chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ 566,52%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu 297,52%, sản xuất chế biến thực phẩm 154,17%,... do vậy các DN này cần có kế hoạch sản xuất hợp lý, tìm đầu ra cho sản phẩm hiệu quả hơn tạo động lực cho lao động tập trung sản xuất, tăng hiệu quả SXKD, tạo điều kiện để DN phát triển sản xuất ổn định trong năm 2024.

- Chỉ số sử dụng lao động: Chỉ số sử dụng lao động trong các DN công nghiệp tháng 6 năm 2024 tăng 0,25% so với tháng trước; so với cùng kỳ năm trước tăng 3,31%. Chia theo loại hình: DN ngoài nhà nước tăng 5,21%; DN nhà nước tăng 2,76%; DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 0,49%. Chia theo ngành công nghiệp: Công nghiệp khai khoáng tăng 3,02%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,05%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện giảm 2,2%; cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,27%.

Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số sử dụng lao động tăng 2,75% so với vùng kỳ năm trước. Trong đó, lao động ở ngành khai khoáng tăng 3,1%; ngành chế biến, chế tạo tăng 5,81%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,11%; riêng chỉ số ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện giảm 5,89%.

8. Thương mại, dịch vụ

8.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Sáu tháng đầu năm 2024, hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch trên địa bàn tỉnh phát triển ổn định, đạt mức tăng trưởng khá; tỉnh đã có những chính sách kịp thời, tích cực thực hiện nhiều biện pháp kích cầu, tăng cường quảng bá, nâng cao chất lượng dịch vụ, hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành có nhiều khởi sắc. Những tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh Lào Cai diễn ra nhiều lễ hội truyền thống cùng các chuỗi sự kiện văn hóa, du lịch đặc sắc hấp dẫn như: Lễ hội văn hóa tâm linh Fansipan; giao lưu văn nghệ, đồng thời các địa phương tổ chức nhiều chương trình ngày hội văn hóa dân gian tại các bản, làng Lễ hội Gầu Tào của người Mông, Lễ hội nhảy lửa của người Dao; Lễ hội Đền Đồng Ân, Lễ hội đền Cô Ba; giải đua ngựa lần thứ 17 tại huyện Bắc Hà và một số lễ hội khác với nhiều tiết mục hấp dẫn mang đậm bản sắc văn hóa vùng cao,… đã thu hút nhiều du khách đến với tỉnh Lào Cai.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 6 năm 2024 ước đạt 2.638,59 tỷ đồng, tăng 17,44% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 1.764,79 tỷ đồng, tăng 13,93% so cùng kỳ; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 486,67 tỷ đồng, tăng 27,22%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 26,44 tỷ đồng, giảm 2,07%; doanh thu dịch vụ khác đạt 360,68 tỷ đồng, tăng 25,18% so với cùng kỳ năm 2023.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 15.348,92 tỷ đồng, tăng 19,82% so với cùng kỳ năm trước. Xét theo ngành hoạt động:

- Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 10.504,03 tỷ đồng, chiếm 68,43% tổng mức và tăng 17,97% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, lương thực, thực phẩm tăng 27,19%; may mặc tăng 12,79%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 13,94%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 43,43%; ô tô các loại tăng 25,87%; xăng dầu các loại tăng 21,83%; nhiên liệu khác tăng (trừ xăng dầu) 26,83%; đá quý, kim loại quý tăng 29,77%; hàng hóa khác tăng 26,12%; gỗ và vật liệu xây dựng giảm 10,42; phương tiện đi lại (trừ ô tô kể cả phụ tùng) giảm 7,78 so với cùng kỳ năm trước.

- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước tính đạt 2.753,24 tỷ đồng, chiếm 17,24% tổng mức và tăng 24,34% so với cùng kỳ năm trước.

- Doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 147,09 tỷ đồng, chiếm 0,96% tổng mức và tăng 10,46% so với cùng kỳ năm trước.

- Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 1.944,59 tỷ đồng, chiếm 12,67% tổng mức và tăng 24,74% so với cùng kỳ năm 2023.

- Số lượt khách do cơ sở lưu trú và đơn vị lữ hành phục vụ ước đạt 1.578.523 lượt, tăng 17,42% so với cùng kỳ năm 2023

8.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Hoạt động thông quan hàng hóa trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm diễn ra khá thuận lợi, không xảy ra tình trạng ùn ứ, ách tắc hàng hóa. Tổng giá trị xuất nhập khẩu, trao đổi, mua bán hàng hóa qua các cửa khẩu tăng mạnh so với cùng kỳ; đặc biệt trong quí II/2024, lượng hàng hóa, phương tiện xuất khẩu hiện tại tăng mạnh so với quí I, do hàng sầu riêng và hàng vải vào chính vụ nên lượng hàng xuất khẩu tăng mạnh; bên cạnh đó, vào một số thời điểm hàng hóa thông quan tại các cửa khẩu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đang ùn lại, một lượng hàng trái cây như sầu riêng chuyển sang thông quan tại cửa khẩu quốc tế đường bộ số II Kim Thành của tỉnh Lào Cai. Các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu vẫn là các mặt hàng truyền thống như: xuất khẩu gỗ ván bóc, thanh long, dưa hấu, sầu riêng, mít, chuối, chôm chôm, xoài, sắn…; nhập khẩu hoa, cây cảnh, rau củ quả tươi, than cốc, phân bón, máy móc thiết bị, bánh kẹo, năng lượng điện…Trung bình lượng phương tiện thông quan tại cửa khẩu khoảng hơn trên 470 xe/ngày; trong đó, xe xuất khẩu 240 xe/ngày; nhập khẩu 230 xe/ngày.

Tổng giá trị xuất nhập khẩu, mua bán, trao đổi hàng hoá qua các cửa khẩu trong tháng 6/2024 ước đạt 332,63 triệu USD, tăng 37,61% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm ước đạt 1.574,46 triệu USD, tăng 64,2% so với cùng kỳ và đạt 34,99% kế hoạch năm, trong đó:

- Giá trị xuất khẩu tháng 6/2024 ước đạt 215,23 triệu USD, tăng 57,11% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 950,16 triệu USD, tăng 104,2% so với cùng kỳ năm 2023, đạt 50,01% kế hoạch năm;

- Giá trị nhập khẩu ước đạt 59,5 triệu USD, tăng 2,97% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 313,37 triệu USD, tăng 34,73% so với cùng kỳ và đạt 26,11% kế hoạch năm;

- Các loại hình (TNTX, KNQ, chuyển CK, Quá cảnh, Doanh nghiệp trong tỉnh thực hiện XNK tại các cửa khẩu khác) ước đạt 57,9 triệu USD, tăng 23,33% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 310,93 triệu USD, tăng 19,15% so với cùng kỳ và đạt 22,21% kế hoạch năm.

8.3. Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách (HK): Tháng Sáu ước đạt 1.132 nghìn HK, tăng 11,99% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển đạt 60.377 nghìn HK.Km, tăng 4,53%. Ước thực hiện Quý II năm 2024, vận tải HK đạt 3.456 nghìn HK, tăng 9,63% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển đạt 184.828 nghìn HK.Km, tăng 6,97%. Tính chung 6 tháng đầu năm năm 2024, vận tải HK đạt 6.502 nghìn HK, tăng 2,73% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển đạt 349.049 nghìn HK.Km, tăng 1,93%.

Vận tải hàng hóa: Tháng Sáu ước đạt 1.488 nghìn tấn, tăng 14,02% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển đạt 54.102 nghìn tấn.km, tăng 7,62%. Quý II/2024 vận tải hàng hóa đạt 4.484 nghìn tấn, tăng 19,2%; luân chuyển đạt 160.453 nghìn tấn.km, tăng 11% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, vận tải hàng hóa đạt 8.734 nghìn tấn, tăng 18,83% so với cùng kỳ; luân chuyển đạt 313.450 nghìn tấn.km, tăng 13,55%.

Doanh thu vận tải: Tổng doanh thu vận tải tháng Sáu ước đạt 578,11 tỷ đồng, tăng 15,6% so với cùng kỳ 2023; trong đó, doanh thu vận tải hành khách đạt 244,61 tỷ đồng, doanh thu vận tải hàng hóa đạt 237,63 tỷ đồng, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 95,87 tỷ đồng. Quý II/2024, tổng doanh thu vận tải đạt 1.733,47 tỷ đồng, tăng 15,64% so với cùng kỳ; trong đó, doanh thu vận tải hành khách đạt 745,92 tỷ đồng, doanh thu vận tải hàng hóa đạt 706,97 tỷ đồng, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 280,57 tỷ đồng. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, tổng doanh thu vận tải đạt 3.225,1 tỷ đồng, tăng 9,58% so với cùng kỳ; trong đó, doanh thu vận tải hành khách đạt 1.332,88 tỷ đồng, doanh thu vận tải hàng hóa đạt 1.373,38 tỷ đồng, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 518,85 tỷ đồng.

9. Một số vấn đề xã hội

9.1. Lao động, việc làm

a) Lao động

Quý II năm 2023, thị trường lao động trên địa bàn tỉnh Lào Cai cơ bản ổn định và phát triển. Thị trường lao động trong quý II năm nay tăng so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động giảm so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước. Điều này cho thấy, các cấp ủy, chính quyền tỉnh Lào Cai đã có những biện pháp chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt và có nhiều giải pháp để phát triển thị trường lao động, cụ thể:

- Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong quý II năm 2024 ước đạt 395,26 nghìn người, so với quý trước tăng 1,87%, so với cùng kỳ năm trước tăng 0,93%. So với quý trước, lực lượng lao động ở tăng ở cả khu vực thành thị và khu vực nông thôn (tương ứng tăng 0,14 nghìn người và tăng 7,11 nghìn người), lực lượng lao động nam và lực lượng lao động nữ đều tăng (lần lượt tăng 3,27 nghìn người và tăng 3,97 nghìn người). So với cùng kỳ năm trước, lực lượng lao động ở khu vực thành thị tăng 15,94 nghìn người, khu vực nông thôn giảm 12,31 nghìn người).

- Lao động có việc làm ước tính đến quý II năm 2024 khoảng 387,14 nghìn người. Trong đó, nông, lâm nghiệp và thủy sản là 210,55 nghìn người, so với cùng kỳ năm trước bằng 99,69%; trong đó, công nghiệp và xây dựng là 82,85 nghìn người, tăng 8,5%; dịch vụ là 92,44 nghìn người, bằng 93,31%.

b) Giải quyết việc làm và đảm bảo an sinh xã hội

Công tác dạy nghề và giải quyết việc làm mới được triển khai đồng bộ ngay từ đầu năm. Tiếp tục lựa chọn, thông báo tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh cho các huyện, thị xã, thành phố để thông tin đến người dân. Tuyên truyền, tư vấn chính sách lao động, việc làm, học nghề, xuất khẩu lao động, BHTN, BHXH.

Trong tháng 6 năm 2024 đã tổ chức 02 phiên giao dịch việc làm; tuyên truyền, tư vấn chính sách lao động, việc làm, học nghề, BHTN cho 1.934 lượt người, tiếp nhận đăng ký tuyển dụng của 25 đơn vị, doanh nghiệp. Lũy kế đã tổ chức 07 phiên giao dịch việc làm, tuyên truyền, tư vấn 10.227 lượt người; tiếp nhận đăng ký tuyển dụng của 132 lượt đơn vị doanh nghiệp với 187 vị trí, 5.153 người[2]. Hỗ trợ tư vấn việc làm cho 100% lao động đến tư vấn và giải quyết đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp; giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp cho 938 người lao động.

Trong tháng đã giải quyết việc làm cho 1.293 lao động, trong đó 280 lao động được vay vốn Quỹ quốc gia giải quyết việc làm. Lũy kế thực hiện 06 tháng đầu năm 2024 giải quyết việc làm cho 9.239 lao động đạt 63,7% kế hoạch năm (tăng 619 lao động so với cùng kỳ năm 2023), trong đó 1.986 lao động được vay vốn giải quyết việc làm đạt 62,1% kế hoạch năm.

9.2. Giáo dục

Trong 6 tháng đầu năm 2024, ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh đã tổ chức tốt thi tuyển sinh vào 10 năm học 2024-2025; Chuẩn bị đầy đủ điều kiện phục vụ kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024,...

Tổ chức cho học sinh tham gia các cuộc thi, kết quả: Tại Giải vô địch cờ vua trẻ quốc gia năm 2024 tranh Cúp Doppelherz, các kỳ thủ Lào Cai đã giành được 12 huy chương các loại, trong đó có 1 Huy chương Vàng, 6 Huy chương Bạc và 5 Huy chương Đồng. Thành tích cá nhân, kỳ thủ Phạm Như Ý thi đấu lứa tuổi U10 đoạt Huy chương Vàng cá nhân cờ tiêu chuẩn, Huy chương Bạc cá nhân cờ nhanh và Huy chương Bạc cá nhân cờ chớp nhoáng. Kỳ thủ Như Ý cũng cùng với đồng đội lứa tuổi U10 đoạt Huy chương Bạc đồng đội cờ chớp, Huy chương Bạc đồng đội cờ tiêu chuẩn và Huy chương Đồng đồng đội cờ nhanh,…

9.3. Văn hóa, thể thao

- Lĩnh vực văn hoá: Tập trung tuyên truyền, tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ chào mừng các sự kiện lớn của đất nước, của tỉnh; công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa được chú trọng; Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với xây dựng nông thôn mới, văn minh đô thị, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở được đẩy mạnh; các hoạt động phục vụ văn hóa cơ sở tiếp tục quan tâm triển khai thực hiện.

- Hoạt động thể thao: Công tác tổ chức các hoạt động thể dục thể thao trong tỉnh đã được khôi phục và duy trì tốt, sôi nổi và rộng khắp. Trong tháng tổ chức thành công 01 giải thể thao cấp tỉnh “Giải Bóng chuyền hơi trung, cao tuổi”; lũy kế tổ chức thực hiện 13 giải, bằng 59% kế hoạch. Đăng cai tổ chức thành công 01 giải thể thao toàn quốc “Giải vô địch các lứa tuổi trẻ vật cổ điển, vật tự do quốc gia”; lũy kế tổ chức 02 giải, bằng 50% kế hoạch. Tính đến thời điểm báo cáo, các vận động viên đã tham gia 20 giải toàn quốc đạt 34 huy chương các loại (22 HCV, 9 HCB, 3 HCĐ); trong đó 02 giải thuộc hệ thống giải phong trào, 18 giải thuộc hệ thống giải thể thao thành tích cao (có 03 giải tham gia với nguồn kinh phí xã hội hóa).

9.4. Y tế

Sáu tháng đầu năm 2024, duy trì thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh; các chương trình công tác y tế, dân số, công tác bảo đảm an toàn thực phẩm được triển khai theo đúng kế hoạch, các mục tiêu đảm bảo tiến độ đề ra. Duy trì tốt công tác khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế, chất lượng từng bước được nâng lên.

- Kiểm soát dịch bệnh: Quản lý chặt chẽ các dịch bệnh nguy hiểm, dịch bệnh lưu hành địa phương; phát hiện sớm, khống chế dịch bệnh kịp thời, không để lan rộng. Trong tháng ghi nhận 177 ca mắc thủy đậu, lũy kế 6 tháng là 1.087 ca; các ổ dịch được xử lý phun hoá chất, vệ sinh môi trường, cách ly ca bệnh điều trị.

- Tiêm chủng mở rộng: Tổng số trẻ được tiêm chủng đầy đủ là 1.167 trẻ, lũy kế: 4.085 trẻ, đạt 35,1% kế hoạch năm; tiêm phòng uốn ván cho phụ nữ có thai 942 người, lũy kế: 4.747 người, đạt 40,8% kế hoạch; tiêm phòng viêm gan B 24h sau sinh cho 4.791 người, đạt 94,5%; công tác tiêm chủng an toàn, không có tai biến.

- Công tác khám chữa bệnh: Duy trì hợp tác y tế với các bệnh viện tuyến trên theo các chương trình đã ký kết; tiếp tục các hoạt động đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, khám chữa bệnh từ xa, mời chuyên gia của bệnh viện tuyến trên về trực tiếp Khám chữa bệnh cho nhân dân; tiếp nhận, chuyển giao kỹ thuật. Triển khai hiệu quả Đề án 1816 của Bộ Y tế về luân phiên cán bộ chuyên môn cho tuyến dưới; tiếp nhận, triển khai các kỹ thuật cao, kỹ thuật chuyên sâu, kỹ thuật vượt tuyến. Các bệnh viện tuyến tỉnh thực hiện được 70-80% các dịch vụ kỹ thuật, bệnh viện tuyến huyện trung bình đạt 49,1%, các trạm y tế xã đạt 51,87%; nguyên nhân các dịch vụ còn đạt thấp do cơ sở vật chất còn đang đầu tư, thiếu trang thiết bị (hiện đang tiếp tục mua sắm), thiếu đội ngũ cán bộ chuyên sâu tuyến y tế cơ sở.

Thực hiện tốt công tác thường trực cấp cứu, sẵn sàng tiếp nhận bệnh nhân, thực hiện tốt các quy định về y đức, tinh thần, thái độ phục vụ người bệnh. Tổng số lượt khám bệnh trong 6 tháng đạt 973.829 lượt; công suất sử dụng giường bệnh toàn tỉnh đạt 92,87% (Bệnh việnđạt 93,22%; các PKĐKKV đạt 89,39%).

- Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: Trong 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh đã kiểm tra đối với 5.307 cơ sở thực phẩm, có 5.174 cơ sở đạt tương đương 97,5%, đạt 116% kế hoạch giao; phạt hành chính 133 cơ sở với số tiền 374,1 triệu đồng; 75 cơ sở tự tiêu hủy 473kg và 169,2 lít thực phẩm không đảm bảo chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ...

Trong tháng 6 tiếp nhận 195 hồ sơ tự công bố sản phẩm thực phẩm, luỹ tích 6 tháng đầu năm 2024 tiếp nhận 1.177 hồ sơ; cấp 273 giấy chứng nhận. Sáu tháng đầu năm xảy ra 04 vụ ngộ độc thực phẩm, số người mc là 20 người, tử vong 01 người.

9.6. Tai nạn giao thông

Theo báo cáo của Ban An toàn giao thông tỉnh, tháng 6 năm 2024 xảy ra 17 vụ tai nạn giao thông và va chạm giao thông đường bộ, làm 4 người chết và 18 người bị thương; so với tháng trước, số vụ giảm 22,73%, số người chết giảm 42,86%, số người bị thương tăng 12,5%; so với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông và va chạm giao thông đường bộ không đổi, số người chết giảm 33,33%, số người bị thương tăng 5,88%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 110 vụ tai nạn giao thông và va chạm giao thông đường bộ, làm 40 người chết và 96 người bị thương; so với cùng kỳ năm trước số vụ tăng 35,8%, số người chết tăng 38,71% và số người bị thương giảm 4%.

Lực lượng Công an, Thanh tra giao thông thường xuyên tăng cường tuần tra, kiểm soát, ngăn chặn tình trạng đua xe trái phép, không đội mũ bảo hiểm, xe ô tô chạy quá tốc độ, quá tải, xe khách chở quá số người qui định, kiểm tra nồng độ cồn. Trong tháng, đã lập biên bản xử lý 1.379 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, tạm giữ 699 phương tiện các loại, tước 333 giấy phép lái xe, xử phạt nộp Kho bạc Nhà nước 3,85 tỷ đồng; luỹ kế lập biên bản xử lý 8.957 trường hợp, tạm giữ 4.240 phương tiện, tước 2.199 giấy phép lái xe, xử phạt nộp Kho bạc Nhà nước 23,42 tỷ đồng.

9.7. Thiệt hại do thiên tai

Trong tháng, trên địa bàn tỉnh xảy ra 03 vụ thiên tai do giông lốc gây ra. Thiệt hai do thiên tai gây ra, làm 05 người chết do lũ cuốn chôi; làm hư hại 36 ngôi nhà; diện tích lúa, ngô và hoa màu bị thiệt hại là 33,58 ha; gia cầm bị cuốn trôi 210 con; thủy sản bị thiệt hại 2,03 ha. Cở sở hạ tầng: Trường học bị tốc mái, sạt lở tường 05 trường; nhà văn hóa thôn bị tốc mái, hư hỏng 01 nhà; công trình thủy lợi bị sụt, sạt hư hỏng 10 công trình; nhiều điểm giao thông bị sạt, lở với khối lượng lớn, mưa lũ làm ách tắc nhiều tuyến đường,... Giá trị thiệt hại ước khoảng 10.578 triệu đồng.

Lũy kế 6 tháng đầu năm xảy ra 16 vụ thiên tai do giông lốc, rét đậm, rét hại; thiệt hại do thiên tai gây ra làm 05 người chết do lũ cuốn chôi; hư hại 1.510 ngôi nhà; thiệt hại 721,39 ha lúa, ngô, rau mầu; làm chết 9 con gia súc, 570 con gia cầm; nhiều công trình trường học, trạm y tế, nhà xưởng bị tốc mái,... Giá trị thiệt hại ước khoảng 70.308 triệu đồng.

10.8. Tình hình cháy nổ và bảo vệ môi trường

- Cháy, nổ: Trong tháng, trên địa bàn tỉnh không xảy ra cháy, nổ; lũy kế 6 tháng đầu năm xảy ra 15 vụ, không có thiệt hại về người, thiệt hại về tài sản ước khoảng 1.761 triệu đồng. Nguyên nhân gây ra cháy: 04 vụ cháy do chập điện, 02 vụ do bất cẩn trong sử dụng lửa, 02 vụ xe ôtô, 01 vụ cháy cơ sở kinh doanh, 04 vụ cháy rừng, 02 vụ đang điều tra nguyên nhân.

- Môi trường: Trong tháng, xảy ra 9 vụ vi phạm môi trường, đã được xử lý, giải quyết 6 vụ; số tiền xử phạt là 84,9 triệu đồng. Lũy kế xảy ra 54 vụ, đã được xử lý, giải quyết 44 vụ; số tiền xử phạt là 1.499 triệu đồng. Nội dung vi phạm chủ yếu là kinh doanh hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ, vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm, vi phạm về môi trường trong việc xử lý chất thải.

Tóm lại: Sáu tháng đầu năm 2024, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai tuy còn gặp những khó khăn, nhưng với quyết tâm của toàn hệ thống chính trị, kinh tế - xã hội của tỉnh đã đạt được nhiều điểm tích cực: Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 5,62%, cao hơn 1,28 điểm so với mức tăng của 6 tháng đầu năm 2023; sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản duy trì ổn định; sản xuất công nghiệp tuy gặp phải một số khó khăn nhưng vẫn được duy trì và phát triển; hoạt động dịch vụ trên địa bàn tỉnh diễn ra sôi động, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, hoạt động du lịch đạt khá, tiếp tục phát huy vai trò mũi nhọn của nền kinh tế; các chế độ chính sách, an sinh xã hội được thực hiện đầy đủ, kịp thời; quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; hoạt động đối ngoại được đẩy mạnh,...



[1] Gồm: Nhà máy sản xuất sợi dệt và tinh bột chuối Musa Golden Lào Cai với tổng mức đầu tư 386 tỷ đồng; Khai thác, chế biến đá làm VLXDTT tạ mỏ đá Võ Lao với tổng mức đầu tư 22,3 tỷ đồng; Khu nhà ở thương mại tại lõi đất sau làn dân cư các đường Hoàng Liên, Lý Công Uẩn và đường Nguyễn Du phường Kim Tân với tổng mức đầu tư 51,4 tỷ đồng; Dự án chăn nuôi lợn và sản xuất giống lợn với tổng mức đầu tư 14,9 tỷ đồng; Dự án Đầu tư chăn nuôi lợn công nghệ cao với tổng mức đầu tư 190 tỷ đồng; Dự án nhà ở xã hội tại xã Vạn Hoà với tổng mức đầu tư 562 tỷ đồng; Dự án nhà ở xã hội tại Khu dân cư giáp đường B6 kéo dài với tổng mức đầu tư 2.085 tỷ đồng.

[2] Trong tháng đã có 117 lao động tìm được việc làm qua đăng ký tại Trung tâm DVVL tỉnh, lũy kế 310 lao động tìm được việc làm/762 người được giới thiệu việc làm

Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập
Footer chưa được cập nhật nội dung hoặc chưa được duyệt !