Tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2022

1. Tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh Lào Cai năm 2022 ước tính tăng 9,02% so với năm 2021, cao hơn mức tăng 5,45% của năm 2021, (Theo số liệu ước tính được Tổng cục Thống kê công bố tại Văn bản số 2004/TCTK-TKQG ngày 30/11/2022). Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn trong việc phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19. Song kết quả tăng trưởng ước năm 2022 cho thấy hiệu quả của sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, linh hoạt, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh cùng với sự chủ động, nỗ lực của các cấp, các ngành, người dân và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Lào Cai.

TỐC ĐỘ TĂNG TỔNG SẢN PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

VÀ MỨC ĐÓNG GÓP CỦA CÁC NGÀNH

Đơn vị tính: %

 

Tốc độ tăng trưởng

Đóng góp của mỗi nhóm ngành vào tăng trưởng chung

2021

2022

2021

2022

Tổng số

105,45

109,02

5,45

9,02

Nông, lâm nghiệp, thủy sản

106,25

104,47

0,94

0,67

Công nghiệp - xây dựng

104,15

108,62

1,56

3,21

Dịch vụ

105,63

110,76

2,12

4,05

Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sp

108,57

110,79

0,84

1,09

Trong mức tăng chung 9,02%, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,47%, đóng góp 0,67 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,62%, đóng góp 3,21 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 10,76%, đóng góp 4,05 điểm phần trăm; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 10,79%, đóng góp 1,09 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Từ kết quả trên cho thấy, tăng trưởng năm 2022 của tỉnh, chủ yếu là khu vực dịch vụ đã đóng góp 4,05 điểm phần trăm vào mức tăng chung của toàn ngành, tiếp đến là khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 3,21 điểm phần trăm, nông lâm nghiệp và thủy sản chỉ đóng góp 0,67 điểm trần trăm và thuế sản phẩm là 1,09 điểm phần trăm. Trong đó:

- Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: Năm 2022, tuy có ảnh hưởng do giá vật tư nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi, thức ăn thủy sản tăng cao, nguyên liệu đầu vào và cước vận chuyển tăng trong khi giá bán sản phẩm chăn nuôi thấp và không ổn định,... Tuy nhiên, với việc thực hiện tốt các chính sách về phát triển nông nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh; sản xuất nông nghiệp thực hiện đúng khung thời vụ; chăn nuôi phát triển ổn định, không có dịch bệnh lớn xảy ra; công tác trồng rừng đảm bảo kế hoạch; diện tích nuôi trồng thủy sản được duy trì,… vì vậy tốc độ tăng trưởng vẫn duy trì và phát triển khá với mức tăng trưởng đạt 4,47%, đóng góp 0,67 điểm phần trăm vào mức tăng chung.

- Khu vực công nghiệp và xây dựng: Năm 2022, khu vực công nghiệp và xây dựng còn gặp nhiều khó khăn; trong sản xuất công nghiệp, ngành công nghiệp khai khoáng tiếp tục gặp khó khăn do ảnh hưởng giá nguyên, nhiên vật liệu đầu vào tăng cao; một số đơn vị gặp khó khăn trong việc hoàn thiện các thủ tục, hồ sơ về thuê đất, GPMB, hoàn thiện hồ sơ pháp lý để thực hiện các Dự án, đặc biệt là Công ty TNHH Khoáng sản và Luyện kim Việt Trung tạm dừng sản xuất từ ngày 15/5/2022 do vấn đề tài chính và chưa hoàn thiện đề án tái cơ cấu doanh nghiệp,... đã ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng của toàn ngành khai khoáng cũng như ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Tốc độ tăng trưởng đạt 8,62% so với năm 2021, đóng góp là 3,21 điểm phần trăm vào mức tăng chung; đây là mức tăng trưởng cao nhất từ năm 2019 đến nay (Tốc độ tăng các năm 2019, 2020, 2021 so với năm trước lần lượt là 8,47%; 7,06%; 4,15%).

Ngành xây dựng trong năm đã có nhiều khởi sắc sau nỗ lực triển khai chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần của Nghị quyết 11/NQ-CP cùng với các chính sách nới lỏng giãn cách xã hội và hoàn thành tiêm vắc xin, đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh trở lại hoạt động bình thường; dự ước mức tăng trưởng đạt 6,34%, cao hơn mức tăng 1,47% của năm 2021 so với năm trước, đóng góp 0,59 điểm phần trăm vào mức tăng chung.

- Khu vực dịch vụ: Năm 2022, hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch trên địa bàn tỉnh đã và đang phục hồi mạnh mẽ sau khi dịch Covid-19 được khống chế, các hoạt động thương mại, dịch vụ chuyển sang trạng thái bình thường; cùng với đó, tỉnh đã tổ chức nhiều sự kiện để quảng bá kích cầu du lịch, các lễ hội được tổ chức tại các địa phương thu hút lượng lớn khách du lịch đến với Lào Cai; đa số các lĩnh vực đều tăng trưởng khá, đặc biệt là hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ lưu trú, ăn uống, hoạt động kinh doanh vận tải, hoạt động cáp treo Fansipan hoạt động trở lại thu hút lượng khách lớn; Cửa khẩu quốc tế đường bộ số II Kim Thành đã thông quan trở lại, mở ra cơ hội thuật lợi trong xuất nhập khẩu hàng hóa cho người dân và doanh nghiệp, Trung tâm thương mại GO với quy mô lớn đi vào hoạt động từ 15/04/2022 thu hút được lượng khách lớn đến thăm quan, mua sắm, các Lễ hội được diễn ra tại nhiều địa phương trong tỉnh,.... Tăng trưởng khu vực dịch vụ ước đạt 10,76%, cao hơn mức tăng 5,63% của năm 2021 so với năm trước và đóng góp vào mức tăng chung là 4,05 điểm phần trăm.

- Về cơ cấu nền kinh tế: Năm 2022, khi các hoạt động kinh tế trở lại bình thường, cơ cấu kinh tế cũng trở lại đúng xu thế, giảm tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp - xây dựng và ngành dịch vụ; cụ thể, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 13,57%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 41,64%; khu vực dịch vụ chiếm 34,63%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,16% (cơ cấu kinh tế năm 2021 lần lượt là 15%, 39,39%, 35,63% và 9,98%).

2. Tài chính, ngân hàng

2.1. Tài chính

- Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh lũy kế đến ngày 20/12/2022 đạt 9.372,67 tỷ đồng, bằng 126,15% dự toán Trung ương giao, bằng 93,73% dự toán tỉnh giao và tăng 13,31% so với cùng kỳ năm trước; trong đó:

+ Thu nội địa ước đạt 7.895,37 tỷ đồng, bằng 134% dự toán Trung ương giao, bằng 96,3% dự toán tỉnh giao và tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước.

+ Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 1.477 tỷ đồng, bằng 94,9% dự toán Trung ương giao, bằng 82,1% dự toán điều chỉnh và tăng 0,5% so với cùng kỳ năm trước.

Năm 2022, mặc dù phía Trung Quốc đã bắt đầu nới lỏng giãn cách theo chính sách "Zero Covid-19 linh hoạt", tuy nhiên việc đảm bảo an toàn phòng dịch trong hoạt động thông quan vẫn được thực hiện chặt chẽ nên hoạt động xuất nhập khẩu vẫn còn hạn chế, nhiều thời điểm bị gián đoạn, có khi ngừng thông quan trong thời gian dài, hoạt động xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu phụ, lối mở biên giới gần như bị đóng băng, không thực hiện được nên đã gây ảnh hưởng nhiều đến hoạt động thông quan xuất nhập khẩu hàng hóa, vì vậy số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu năm 2022 đạt thấp so với kế hoạch.

- Tổng chi ngân sách địa phương lũy kế hết ngày 20/12/2022 đạt 15.798 tỷ đồng, bằng 137% dự toán Trung ương giao, bằng 97,56% dự toán tỉnh giao. Ước thực hiện cả năm đạt 20.827 tỷ đồng.

Năm 2022, dịch bệnh đã được khống chế trở về hoạt động bình thường mới, tỉnh Lào Cai luôn đảm bảo các khoản chi thường xuyên và đặc biệt quan tâm và đã đảm bảo kịp thời chính sách chế độ cho giáo viên, học sinh, tăng cường cơ sở vật chất trường lớp học; kinh phí thực hiện chính sách chế độ cho cán bộ, nhân viên ngành y tế và công tác khám chữa bệnh, hỗ trợ bảo hiểm y tế cho các đối tượng theo chế độ. Nhiều chính sách hỗ trợ an sinh xã hội đã được triển khai kịp thời có hiệu quả, thực hiện tốt công tác xét, giải quyết chế độ và chi trả trợ cấp thường xuyên, bảo hiểm y tế, các trợ cấp xã hội khác cho các đối tượng hộ nghèo, người cao tuổi, đối tượng bảo trợ xã hội; thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng chính sách, trợ cấp khó khăn cho các đối tượng có thu nhập thấp, đời sống khó khăn,...

2.2. Ngân hàng

Trong năm, các Ngân hàng, TCTD đã bám sát chỉ đạo của NHNNVN và thực hiện nghiêm các quy định về lãi suất huy động và cho vay theo Quyết định 1729/QĐ-NHNN, QĐ 1730/QĐ-NHNN ngày 30/9/2020 của NHNN VN, cụ thể:

 

Lãi suất huy động

Lãi suất cho vay

Kỳ Hạn

Phổ biến

Đối tượng

Phổ biến

Không kỳ hạn

0,5%/năm-1,0%/năm

+ 0,8%/năm

1- Cho vay SXKD

Dưới 6 tháng

4,6%/năm-6,0%/năm

+ 2,0%/năm

- Ngắn hạn

6 tháng đến dưới 12 tháng

6,1%/năm-9,2%/năm

+ 2,4%/năm-3,5%/năm

- Trung, dài hạn

Trên 12 tháng

7,4%/năm-9,5%/năm

+ 3%/năm-3,6%/năm

2- Đối tượng ưu tiên

3-Cho vay tiêu dùng

- Công tác huy động vốn: Tổng nguồn vốn tín dụng đến 31/12/2022 ước đạt 55.600 tỷ đồng; trong đó, huy động tại địa bàn ước đạt 40.000 tỷ đồng, tăng 12,3% so với cuối năm 2021; Nguồn vốn vay TW, HĐ ngoài địa bàn, nguồn vốn khác ước đạt 15.600 tỷ đồng, giảm 23,7% so với 31/12/2021.

- Hoạt động cho vay: Doanh số cho vay cả năm 2022 ước đạt 83.000 tỷ đồng, tăng 6,7% so với năm 2021.

- Dư nợ tín dụng: Dư nợ đến 31/12/2022 ước đạt 49.500 tỷ đồng, giảm 4,5% so với 31/12/2021. Trong đó, ngắn hạn 25.600 tỷ đồng, tăng 490 tỷ đồng so với 31/12/2021; Trung, dài hạn 23.900 tỷ đồng, giảm 2.830 tỷ đồng so với 31/12/2021.

- Chất lượng tín dụng: Trong năm, các ngân hàng đã chủ động tăng cường công tác kiểm soát chất lượng công tác tín dụng, tích cực thu hồi nợ quá hạn, nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu đến 31/12/2022 ước là 1,1%, giảm 3,95 điểm phần trăm so với 31/12/2021.

- Kết quả hoạt động ngân hàng thực hiện nhiệm vụ trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế: Thực hiện các Chương trình theo NQ 11/NQ-CP tại NHCSXH Lào Cai: Doanh số cho vay đạt 182,75 tỷ đồng, đối với 2.922 khách hàng vay vốn. Thực hiện Chương trình hỗ trợ lãi suất 2% theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP từ nguồn NSNN thông qua hệ thống ngân hàng thương mại: Doanh số cho vay được hỗ trợ là 119,59 tỷ đồng đối với 23 khách hàng, dư nợ được hỗ trợ lãi suất (HTLS) thời điểm báo cáo là 105,57 tỷ đồng; số tiền lãi đã hỗ trợ là 323,76 triệu đồng. Thực hiện Chương trình hỗ trợ lãi suất 2% theo Nghị định 36/2022/NĐ-CP tại NH CSXH tỉnh Lào Cai: Dư nợ cho vay HTLS đạt 1.075 tỷ đồng, đối với 19.011 khách hàng, số tiền lãi đã chi trả cho khách hàng là 8,8 tỷ đồng. Thực hiện Nghị định 28/2022/NĐ-CP: Tổng số tiền cho vay 32,63 tỷ đồng, với 653 khách hàng.

3. Chỉ số giá

Nền kinh tế được phục hồi do dịch Covid-19 về cơ bản được kiểm soát, với nguồn cung dồi dào, đảm bảo về sản lượng và giá cả; thị trường hàng hóa trên địa bàn tỉnh Lào Cai đáp ứng tốt nhu cầu của người dân trong các dịp Lễ, Tết cũng như hoạt động thường nhật. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của thời tiết rét đậm, rét hại các tháng đầu năm và mưa kéo dài đầu mùa mưa làm cho các loại hoa màu không phát triển được, dẫn đến nguồn cung một số mặt hàng rau xanh ít tại một số thời điểm. Bên cạnh đó, tình hình chính trị Thế giới diễn biến phức tạp, giá xăng dầu có nhiều biến động (tính từ đầu năm đến nay, mặt hàng xăng đã trải qua 33 lần điều chỉnh giá, trong đó có 17 lần tăng và 15 lần giảm, một lần giữ nguyên), điều này tác động đến giá thành sản xuất các mặt hàng, làm chỉ số giá nhiều nhóm hàng biến động theo.

3.1. Chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Mười hai giảm 0,50% so tháng trước, tăng 3,40% so với cùng tháng năm trước; quý IV, CPI giảm 0,3% so với quý trước, so với cùng kỳ năm 2021 tăng 3,81%; tính chung 12 tháng, CPI tăng 2,85% so với bình quân cùng kỳ năm 2021. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính của tháng Mười hai, có 7 nhóm giữ giá ổn định và 4 nhóm giảm giá so với tháng trước.

- Các nhóm có chỉ số ổn định: Nhóm đồ uống và thuốc lá; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình; nhóm thuốc và dịch vụ y tế; nhóm bưu chính viễn thông; nhóm giáo dục; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác (CPI=100).

- Nhóm có chỉ số giảm: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,54%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD giảm 0,28%; nhóm giao thông giảm 2,08%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 1,7%.

CPI bình quân 12 tháng năm 2022 tăng 2,85% so với bình quân cùng kỳ năm 2021; trong đó, có 9 nhóm chỉ số tăng, 2 nhóm có chỉ số giảm. Các yếu tố chính làm tăng CPI trong 12 tháng năm 2022: (1) Giá các mặt hàng lương thực, thực phẩm tăng cao do, nhu cầu tăng vào những ngày trước và trong dịp Tết Nguyên đán. Các hoạt động Lễ hội, cưới hỏi, ăn uống ngoài gia đình được phục hồi và diễn ra bình thường sau khoảng thời gian hạn chế do dịch Covid-19 cũng là nguyên nhân chính làm mức tiêu thụ thực phẩm tăng cao. Chỉ số nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống bình quân cả năm tăng 3,14% so với cùng kỳ năm trước. (2) Chỉ số giá nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,68% so với cùng kỳ năm trước do, nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng rượu, bia, nước ngọt, thuốc lá tăng. (3) Chỉ số giá nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 2,97% so với cùng kỳ năm trước do, giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở (xi măng, sắt thép, đá, cát sỏi) tăng; giá điện, nước sinh hoạt tăng; giá gas và các loại chất đốt đều tăng cao do ảnh hưởng của thị trường trong nước và thế giới. (4) Giá các đồ dùng thiết yếu như tủ lạnh, máy giặt tăng do, chi phí nguyên vật liệu sản xuất, xăng dầu tăng nên cơ sở tăng giá bán, làm chỉ số giá nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,09% so với cùng kỳ năm trước. (5) Giá một số mặt hàng thuốc tăng do người dân sử dụng trong phòng và điều trị Covid-19, làm chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,03% so với cùng kỳ năm trước. (6) Giá xăng, dầu tăng do Bộ Công Thương điều chỉnh theo giá xăng, dầu thế giới. Bình quân năm 2022, chỉ số giá nhóm giao thông tăng 7,85% so với cùng kỳ năm trước. (7) Chỉ số giá nhóm giáo dục tăng 7,63% so với cùng kỳ năm trước do, học phí tăng theo quy định, đồng thời giá các mặt hàng bút viết, đồ dùng học tập tăng do nhu cầu và chi phí sản xuất tăng. (8) Hoạt động du lịch khởi sắc trở lại sau khi dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát, giá các gói dịch vụ du lịch tăng, làm chỉ số giá nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,85% so với cùng kỳ năm trước. (9) Giá mặt hàng đồ trang sức tăng do ảnh hưởng của giá vàng tăng, làm cho nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 2,04% so với cùng kỳ năm trước.

Bên cạnh các nguyên nhân làm tăng CPI, có các yếu tố góp phần làm giảm CPI trong 12 tháng năm 2022 so với cùng kỳ năm trước như: (1) Giá các mặt hàng quần áo may sẵn và giày dép giảm do, nhu cầu mua sắm của người dân không nhiều, các cơ sở kinh doanh giảm giá bán để thúc đẩy tiêu thụ, tác động làm chỉ số giá nhóm may mặc, mũ nón, giày dép giảm 0,47% so với cùng kỳ năm trước. (2) Giá mặt hàng điện thoại di động giảm do, cơ sở kinh doanh tổ chức các chương trình khuyến mại để tăng doanh số, tác động làm chỉ số chung của nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,31% so với cùng kỳ năm trước.

3.2. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ

Giá vàng bình quân tháng Mười hai là 5.249.595 đồng/chỉ (giảm 0,65%); giá đô la Mỹ bình quân là 24.254 đồng/1 USD (giảm 2,48%) do, ảnh hưởng của thị trường trong nước và thế giới.

4. Đầu tư và xây dựng

Năm 2022, sau nỗ lực triển khai chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần của Nghị quyết 11/NQ-CP cùng với việc đẩy nhanh tiến độ để hoàn thành tiêm vắc xin phòng dịch bệnh covid-19, đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh trở lại hoạt động bình thường, vì vậy kết quả đầu tư, xây dựng thực hiện trên địa bàn tăng khá so với cùng kỳ năm 2021.

4.1. Đầu tư phát triển

Tổng nguồn vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn dự ước quý IV năm 2022 đạt 8.610,35 tỷ đồng, so với quý III tăng 18,26%, so với cùng kỳ năm trước tăng 35,32%; ước thực hiện cả năm 2022 đạt 25.851,20 tỷ đồng, tăng 18,21% so với năm 2021, cụ thể các nguồn vốn như sau:

Vốn nhà nước trên địa bàn: Vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước trên địa bàn ước thực hiện quý IV năm 2022 đạt 4.204,15 tỷ đồng, tăng 19,52% so với quý trước và tăng 3,72 lần so với cùng kỳ năm trước; ước thực hiện năm 2022 đạt 11.164,21 tỷ đồng, tăng 2,16 lần so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng do giao bổ sung kế hoạch theo nguồn vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu và tăng vốn ngân sách nhà nước cũng như vốn tự có của doanh nghiệp.

Vốn ngoài nhà nước: Ước thực hiện quý IV năm 2022 đạt 3.910,49 tỷ đồng, tăng 18,87% so với quý trước, so với cùng kỳ năm trước giảm 7,12%. Ước thực hiện năm 2022 đạt 13.104,86 tỷ đồng, tăng 21,15% so cùng kỳ năm trước. Vốn ngoài nhà nước tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2021, do tỉnh đã tập trung triển khai chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần của Nghị quyết 11/NQ-CP, cùng với các chính sách linh hoạt trong điều kiện bình thường mới và hoàn thành tiêm vắc xin, đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh trở lại hoạt động bình thường; các cấp, các ngành trong tỉnh đã cố gắng nỗ lực trong việc triển khai kế hoạch đầu tư, các nhà đầu tư tích cực giải quyết những tồn đọng, vướng mắc, đẩy mạnh hoàn thiện các thủ tục đầu tư và giải ngân vốn đầu tư các công trình dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong năm 2022.

Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài: Ước thực hiện quý IV năm 2022 đạt 420,47 tỷ đồng, tăng 5,72% so với quý trước, so với cùng kỳ năm trước giảm 12,11%. Ước thực hiện năm 2022 đạt 1.307,29 tỷ đồng, giảm 34,14% so với năm 2021.

Năm 2022, tỉnh Lào Cai có thêm mới 06 dự án FDI. Lũy kế đến thời điểm hiện tại, toàn tỉnh có 27 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt 685,81 triệu USD; các dự án FDI trên địa bàn tỉnh chủ yếu tập trung trên các lĩnh vực công nghiệp khai thác, chế biến, thương mại, du lịch, dịch vụ, các dự án thuộc lĩnh vực nông lâm nghiệp thủy sản chiếm tỷ lệ thấp, quy mô nhỏ; các dự án FDI tập trung chủ yếu tại các Khu công nghiệp, thành phố Lào Cai, thị xã Sa Pa, huyện Văn Bàn, là các địa phương có nhiều lợi thế phát triển công nghiệp, du lịch. Trong đó bao gồm: 08 dự án thuộc lĩnh vực thương mại, du lịch, dịch vụ với tổng mức đầu tư đăng ký 111,93 triệu USD; 15 dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp - xây dựng cơ bản với tổng mức đầu tư đăng ký 570,15 triệu USD; 04 dự án thuộc lĩnh vực nông lâm nghiệp và thủy sản với tổng vốn đầu tư đăng ký 3,72 triệu USD.

Về tình hình thu hút, đầu tư: Mặc dù môi trường sản xuất kinh doanh của Lào Cai luôn được quan tâm cải thiện, cơ sở hạ tầng giao thông được đầu tư, nâng cấp, tuyến đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai đã được thông xe toàn tuyến và đang được nâng cấp tiếp, qua đó thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của khối các doanh nghiệp FDI trên địa bàn có sự tăng trưởng mạnh, nhất là các chỉ tiêu về doanh thu, thu ngân sách. Trong năm, Lào Cai đã đưa Trung tâm thương mại dịch vụ hiện đại bậc nhất GO! với tổng mức đầu tư hơn 300 tỷ đồng vào hoạt động và khởi công dự án Nhà máy sản xuất dây điện và cáp điện công nghệ cao với tổng vốn đầu tư 1.900 tỷ đồng,... Tuy nhiên, việc thu hút đầu tư FDI còn rất hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng của Lào Cai, nguyên nhân là do: Những khó khăn vốn có của tỉnh miền núi, điều kiện khó khăn, dân trí không đồng đều, cách xa các trung tâm đô thị lớn (thành phố Hà Nội), hệ thống cảng biển (Hải Phòng); mặc dù đường cao tốc đã đi vào vận hành, song chi phí vận chuyển vẫn tương đối cao; một số dự án lớn được các Nhà đầu tư nước ngoài quan tâm, mong muốn được đầu tư vào tỉnh, nhưng còn vướng các quy định của Chính phủ, các cơ chế, chính sách đặc thù của Trung ương; công tác xúc tiến đầu tư bước đầu đổi mới, song cần những bước đột phá, mang tính chuyên nghiệp cao hơn, lấy hiệu quả làm tiêu chí, thước đo đánh giá hàng đầu.

4.2. Hoạt động xây dựng

Hoạt động xây dựng dựng trên địa bàn năm 2022 vẫn chịu ảnh hưởng của dịch Covid - 19, giá nguyên vật liệu đầu vào tăng cao. Tuy nhiên, các cấp các ngành cùng với chủ đầu tư và doanh nghiệp trong tỉnh đã có nhiều cố gắng, nhiều hạng mục công trình sử dụng vốn nhà nước cũng như của các doanh nghiệp, dân cư đã được triển khai thực hiện.

Công tác quy hoạch xây dựng được đẩy mạnh về tiến độ và chất lượng thực hiện các quy hoạch trọng điểm như: Quy hoạch chung xây dựng Khu đô thị du lịch Sa Pa, Quy hoạch phân khu Khu du lịch Y Tý, Quy hoạch chung hai bên dọc sông Hồng, Trong năm, một số công trình và hạng mục công trình chuyển tiếp đã hoàn thành như: Khu nhà ở tái định cư phường Bắc Lệnh; Dự án phát triển các đô thị loại vừa; Kè bảo vệ bờ sông biên giới khu vực mốc 104 + 500 đến mốc 104 + 3.800m phường Lào Cai, thành phố Lào Cai; Dự án Trung tâm Thương ᶆại - Siêu thị Go! Mall thành phố Lào Cai có tổng mức ᵭầų tư 305 tỷ đồng,… Ngoài ra, các công trình do các đơn vị ở Trung ương đầu tư trên địa bàn tỉnh Lào Cai cũng đang được đẩy nhanh tiến độ thi công như: Đường nối cao tốc Nội Bài – Lào Cai đến Sa Pa; Cảng hàng không Sa Pa,... Bên cạnh đó, dịch Covid 19 đến nay đã được kiểm soát nên các đơn vị tập trung thi công một số công trình mới cũng như các công trình chuyển tiếp từ năm trước sang như: Nút giao Phố Lu kết nối tỉnh lộ 152 với cao tốc Nội Bài - Lào Cai với tổng mức đầu tư 150 tỷ đồng bằng nguồn ngân sách của tỉnh; Đường nối cao tốc Nội Bài - Lào Cai đến thị xã Sa Pa; Dự án khu nhà ở thương mại và các công trình hỗn hợp - dịch vụ, khu đô thị mới Lào Cai - Cam Đường đã được khởi công xây với tổng mức đầu tư hơn 4.000 tỷ đồng; Trường Quốc tế Canada - Lào Cai với tổng vốn đầu tư 420 tỷ đồng,…

5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

5.1. Tình hình đăng ký doanh nghiệp

Năm 2022, khi dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh cơ bản đã được khống chế và kiểm soát, các doanh nghiệp có nhiều xu hướng thay đổi, bổ sung ngành nghề kinh doanh; nhiều doanh nghiệp được thành lập với số vốn điều lệ lớn; hoạt động kinh doanh tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực.

Trong tháng 12/2022, thực hiện cấp giấy chứng nhận đăng ký cho 52 doanh nghiệp và 03 đơn vị trực thuộc, vốn đăng ký đạt 435 tỷ đồng; tạm ngừng hoạt động 30 doanh nghiệp; giải thể 11 doanh nghiệp; hoạt động trở lại 25 doanh nghiệp. Dự tính từ đầu năm đến 31/12/2022, thực hiện cấp giấy chứng nhận đăng ký cho 645 doanh nghiệp, tăng 6,5% so với năm 2021, với tổng vốn đăng ký là 6.495 tỷ đồng; trong năm có 465 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, tăng 30,5% so năm trước; 78 doanh nghiệp giải thể, tăng 25,8%; 320 doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 18,6% so với năm 2021.

5.2. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

Qua kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Lào Cai đối với ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý IV/2022 cho thấy: Có 33,77% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý IV tốt hơn quý trước; 43,59% doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 25,64% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định. Dự kiến quý I/2023 so với quý IV/2022, có 23,08% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 41,03% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn và 35,9% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định.

- Về khối lượng sản xuất: Có 30,77% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất quý IV năm nay tăng so với quý trước; 48,72% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm và chỉ có 20,51% số doanh nghiệp cho rằng ổn định. Về xu hướng quý I/2023 so với quý IV/2022, có 35,9% doanh nghiệp dự báo khối lượng sản xuất tăng lên; 30,77% số doanh nghiệp dự báo giảm và 33,33% số doanh nghiệp dự báo ổn định.

- Về đơn đặt hàng: Có 22,86% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng quý IV năm nay cao hơn quý trước; 42,86% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng giảm và 34,29% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng ổn định. Xu hướng quý I/2023 khả quan hơn so với quý IV/2022, với 31,43% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng tăng lên; 31,43% số doanh nghiệp dự kiến đơn hàng giảm và 37,14% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng ổn định.

- Về đơn đặt hàng xuất khẩu mới: Quý IV năm nay so với quý trước chỉ có 5,88% số doanh nghiệp khẳng định số đơn hàng xuất khẩu cao hơn; có tới 47,06% số doanh nghiệp đánh giá đơn hàng xuất khẩu giảm và có 47,06% số doanh nghiệp đánh giá có đơn hàng xuất khẩu ổn định. Xu hướng quý I/2023 so với quý IV/2022 chỉ có 18,75% số doanh nghiệp dự kiến tăng đơn hàng xuất khẩu; có 37,5% số doanh nghiệp dự kiến ổn định và có tới 43,75% doanh nghiệp dự kiến giảm đơn hàng xuất khẩu.

- Về tồn kho sản phẩm: Chỉ có 17,95% số doanh nghiệp có lượng tồn kho quý IV năm nay tăng so với quý trước; có tới 48,72% số doanh nghiệp có lượng tồn kho giảm và có 33,33% số doanh nghiệp giữ ổn định. Xu hướng quý I/2023 so với quý IV/2022, chỉ có 7,69% số doanh nghiệp dự báo lượng hàng tồn kho sẽ tăng; có tới 61,54% số doanh nghiệp cho rằng lượng hàng tồn kho giảm và có 30,77% số doanh nghiệp dự báo giữ ổn định.

- Về chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm: Có 33,33% số doanh nghiệp khẳng định chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm quý IV năm nay tăng so với quý trước; có 15,38% số doanh nghiệp cho biết chi phí giảm và 51,28% số doanh nghiệp cho rằng chi phí tương đương quý trước. Xu hướng trong quý I/2022, có 23,08% số doanh nghiệp dự kiến chi phí sản xuất sẽ tăng so với quý IV/2022; 20,51% số doanh nghiệp cho rằng chi phí giảm và 56,41% số doanh nghiệp dự kiến chi phí sản xuất ổn định.

- Về giá bán bình quân trên một đơn vị sản phẩm: Có 15,38% số doanh nghiệp cho biết có giá bán bình quân trên sản phẩm quý IV/2022 tăng so với quý trước; 25,64% số doanh nghiệp cho biết giá bán thấp hơn và 58,97% số doanh nghiệp có giá bán sản phẩm ổn định. Dự kiến giá bán sản phẩm quý I/2023 so với quý IV/2022 có 20,51% số doanh nghiệp dự báo giá bán sản phẩm sẽ cao hơn; 17,95% số doanh nghiệp dự báo giá bán thấp hơn và 61,54% số doanh nghiệp dự báo giá bán sản phẩm ổn định.

- Về sử dụng lao động: Quý IV năm nay so với quý trước, chỉ có 5,13% số doanh nghiệp nào khẳng định quy mô lao động tăng; 23,08% số doanh nghiệp khẳng định giảm và có tới 71,79% số doanh nghiệp cho biết giữ ổn định. Dự kiến quý I/2023 so với quý IV/2022 có 7,69% số doanh nghiệp dự báo quy mô lao động tăng; 20,51% số doanh nghiệp dự báo giảm và 71,79% số doanh nghiệp cho rằng sẽ ổn định quy mô lao động.

- Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Trong quý IV/2022 có 56,41% doanh nghiệp cho rằng khả năng cạnh tranh cao của hàng trong nước là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; 51,28% doanh nghiệp cho rằng do nhu cầu thị trường trong nước thấp; 41,03% doanh nghiệp cho rằng gặp khó khăn về tài chính; 33,33% doanh nghiệp cho rằng thiếu nguyên, nhiên, vật liệu; 23,08% doanh nghiệp cho rằng lãi suất cao; 17,95% doanh nghiệp cho rằng tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu cao và nhu cầu thị trường quốc tế thấp; 12,82% do Chính sách pháp luật của Nhà nước và 7,69% doanh nghiệp cho rằng thiết bị công nghệ lạc hậu;...

6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2022 mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về giá vật tư nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi, thức ăn thủy sản tăng cao, nguyên liệu đầu vào và cước vận chuyển tăng trong khi giá bán sản phẩm chăn nuôi thấp và không ổn định,... Tuy nhiên, với việc thực hiện tốt các chính sách về phát triển nông nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh; sản xuất nông nghiệp thực hiện đúng khung thời vụ; công tác quản lý giống, phân bón được thực hiện tốt; chăn nuôi phát triển ổn định, không có dịch bệnh lớn xảy ra; diện tích nuôi trồng thủy sản được duy trì; công tác trồng rừng đảm bảo kế hoạch.

6.1. Sản xuất nông nghiệp

a) Trồng trọt

- Cây hàng năm: Tổng diện tích gieo trồng ước tính đạt 98,7 nghìn ha, giảm 4,52% so với năm 2021, do một số diện tích bị thu hồi phục vụ cho các công trình xây dựng cơ bản và làm đường giao thông, một số diện tích chuyển sang trồng cây lâm nghiệp, cây lâu năm và nuôi trồng thủy sản, trong đó:

+ Cây lúa: Diện tích gieo trồng đạt 33,52 nghìn ha, giảm 1,26% so với năm trước; sản lượng lúa cả năm ước tính đạt 183,44 nghìn tấn, tăng 0,03%; năng suất đạt 54,72 tạ/ha, tăng 1,31 tạ/ha;

+ Cây ngô: Diện tích gieo trồng cả năm đạt 35,11 nghìn ha, giảm 3,55% so với năm trước; sơ bộ sản lượng đạt 151,58 nghìn tấn, giảm 1,20% so với năm trước. Tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2022 ước tính đạt 335,02 nghìn tấn, giảm 0,53% so với năm 2021.

+ Cây đậu tương: Diện tích gieo trồng đạt 1,51 nghìn ha, giảm 15,68% so với năm 2021; Sản lượng sơ bộ  đạt 1,98 nghìn tấn, giảm 10,57% so với năm 2021.

+ Cây lạc: Diện tích gieo trồng cả năm đạt 1,05 ha, giảm 19,91% so với năm 2021; Sản lượng sơ bộ đạt 1,57 nghìn tấn, giảm 19,81% so với năm 2021.

- Cây rau các loại: Tổng diện tích gieo trồng cả năm đạt 12,26 nghìn ha, giảm 15,77% so với năm trước, giảm do một số huyện chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Sản lượng rau các loại sơ bộ đạt 165,36 nghìn tấn, giảm 11,11% so với năm 2021.

- Cây lâu năm: Các địa phương đang tập trung chăm sóc, làm cỏ và thu hoạch một số cây ăn quả.

+ Cây chuối: Diện tích hiện có sơ bộ đạt 3,47 nghìn ha, tăng 2,71% so với năm 2021; sản lượng thu hoạch sơ bộ đạt 72,54 nghìn tấn, tăng 11,65% so năm 2021; giá bán trung bình từ 3.000 - 3.500 đồng/kg. Trong năm trồng mới được 470 ha, tăng 9,3% so với kế hoạch năm.

+ Cây Dứa: Diện tích hiện có sơ bộ đạt 2,09 nghìn ha, tăng 11,11% so với năm 2021; sản lượng sơ bộ đạt 32,02 nghìn tấn, tăng 14,52% so với năm trước; tình hình tiêu thụ ổn định, giá bán dao động từ 3.500 - 4.000 đồng/kg. Trong năm trồng mới được 543 ha.

+ Cây chè: Diện tích chè hiện có sơ bộ đạt 7,37 nghìn ha, tăng 12,29% so với năm 2021; sản lượng thu hoạch sơ bộ đạt 41,44 nghìn tấn, tăng 10,06% so với năm 2021. Tình hình tiêu thụ ổn định: giá thu mua chè thường dao động từ 6.000-8.000 đồng/kg; đối với chè chất lượng cao (Kim Tuyên) giá thu mua giao động từ 16.000 -17.000 đồng/kg. Diện tích chè tăng so với năm 2021 là do, tỉnh đã đưa một số giống chè như chè Kim Tuyên, Shan, Ô Long vào trồng và mở rộng diện tích những giống chè chất lượng cao. Hiện nay, Lào Cai có trên 1.000 ha chè VietGAP, 696 ha chè hữu cơ tại huyện Bắc Hà đang có thị trường tiêu thụ ổn định góp phần thay đổi tư duy sản xuất và nâng cao thu nhập của người dân địa phương.

b) Chăn nuôi

Trong năm, tình hình chăn nuôi phát triển ổn định, không có dịch bệnh lớn xảy ra. Riêng đàn trâu giảm do hiện nay nguồn thức ăn và diện tích chăn thả bị thu hẹp, mặt khác cùng với sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật nên người dân chủ yếu sử dụng cơ giới hóa thay thế sức kéo.

- Đàn trâu hiện có là 105,52 nghìn con, giảm 2,44% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 2.862 tấn, so với cùng kỳ năm trước giảm 1,17%.

- Đàn bò hiện có là 22,51 nghìn con, so với cùng kỳ năm trước tăng 1,28%; sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 792 tấn, so với cùng kỳ năm trước tăng 10%.

- Đàn lợn hiện có là 378,79 nghìn con, so với cùng kỳ tăng 4,79%; số lợn xuất chuồng đạt 559,63 nghìn con, tăng 5,52%; sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 45,89 tấn, so với cùng kỳ tăng 5,52%, Đàn lợn tăng ở hầu hết các địa phương, sau khi dịch bệnh ổn định, các địa phương tích cực tái đàn trở lại.  

- Đàn gia cầm hiện có là 5.282 nghìn con, so với cùng kỳ năm trước tăng 5,94%, sản lượng đạt 23,5 nghìn tấn, tăng 8,37%. Trong đó, đàn gà là 4.663 ngàn con so với cùng kỳ tăng 6,68%; sản lượng thịt gà xuất chuồng sơ bộ đạt 20,02 nghìn tấn, tăng 9,79% so với cùng kỳ năm 2021.

6.2. Lâm nghiệp

- Tình hình sản xuất: Năm 2022, tình hình sản xuất lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định và phát triển. Công tác trồng, chăm sóc rừng được quan tâm; hiện nay, các địa phương đang tiếp tục đẩy nhanh tiến độ trồng rừng theo kế hoạch.

+ Sơ bộ cả năm diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 11.327 ha, tăng 12,54% so với cùng kỳ và đạt 107,84% kế hoạch năm 2022;

 + Sản lượng gỗ khai thác cả năm ước tính đạt 187.163 m3, tăng 5,32% so với năm 2021. Sản lượng củi khai thác trong năm đạt 391.907 ste, tăng 2,33%. Sản lượng gỗ và củi khai thác tăng so với cùng kỳ là do rừng trồng hiện nay đã đến tuổi khai thác.

- Tình hình thiệt hại rừng: Trong năm, phát hiện 129 vụ vi phạm pháp luật về lâm nghiệp (phá rừng 33 vụ; lấn chiếm rừng 12 vụ, khai thác trái phép 25 vụ, vận chuyển lâm sản trái phép 37 vụ); các vụ vi phạm đã được xử lý theo pháp luật.

6.3. Thuỷ sản

Năm 2022, nuôi trồng thủy sản phát triển cả về diện tích mặt nước, năng suất và sản lượng; công tác nuôi trồng thủy sản đã được các địa phương và nhân dân chú trọng, tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật như nuôi thâm canh và bán thâm canh. Tổng diện tích thủy sản nuôi trồng ước tính năm 2022 đạt 2,62 nghìn ha; sản lượng thu hoạch đạt 10,28 nghìn tấn, tăng 7,53% so với năm 2021. Sản phẩm thủy sản của tỉnh chủ yếu một số loại cá như: Cá trắm, cá chép, cá rô phi đơn tính,... và một số cá nước lạnh như cá tầm, cá hồi.

7. Sản xuất công nghiệp

Năm 2022, tập trung chỉ đạo triển khai chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần của Nghị quyết 11/NQ-CP cùng với các chính sách nới lỏng giãn cách xã hội và bao phủ vắc xin, vì vậy hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh trở lại hoạt động bình thường, cơ bản duy trì ổn định và có nhiều dấu hiệu khởi sắc.

Chỉ số sản xuất công nghiệp: Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 12 năm 2022 trên địa bàn tỉnh Lào Cai tăng 17,08% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, ngành công nghiệp khai khoáng tăng cao nhất với mức tăng 37,67%; ngành sản xuất & phân phối điện, khí đốt, nước nóng tăng 16,83%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý & xử lý rác thải, nước thải tăng 16,13%; ngành chế biến, chế tạo tăng 8,08%.

Tính chung 12 tháng năm 2022, chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng 7,70% so với cùng kỳ năm trước. Trong các ngành công nghiệp, ngành công nghiệp khai khoáng giảm 5,23%, làm giảm 1,8 điểm phần trăm trong mức tăng chung; ngành sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,02% đóng góp 4,45 điểm phần trăm; ngành điện và phân phối điện, khí đốt, nước nóng tăng 17,82% đóng góp 4,88 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,5% đóng góp 0,17 điểm phần trăm.

Hình 01: Chỉ số sản xuất công nghiệp

anh tin bai

Trong các ngành sản xuất công nghiệp của tỉnh, một số ngành chính có chỉ số sản xuất 12 tháng tăng so với cùng kỳ năm 2021 như: Ngành công nghiệp khai thác quặng kim loại tăng 12,97%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 16,45%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 138,37%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 4,38%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 26,42%; sản xuất và phân phối điện tăng 17,82%,... Bên cạnh đó, một số ngành công nghiệp có chỉ số giảm so với cùng kỳ năm trước do một số doanh nghiệp tập trung vào xử lý môi trường; sửa chữa, bảo dưỡng máy móc, thiết bị; tiêu thụ hàng tồn kho của kỳ trước hoặc do sức mua và biến động thất thường của thị trường. Cụ thể: Ngành khai khoáng khác giảm 25,04%; sản xuất chế biến thực phẩm giảm 37,16%; sản xuất đồ uống giảm 38,21%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa giảm 10,09%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 8,89%; sản xuất kim loại giảm 4,37%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 21,41%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu giảm 38,99%,...

Sản phẩm công nghiệp chủ yếu: Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 12 tháng năm 2022 tăng so với cùng kỳ như: Quặng sắt tăng 19,36%; quặng đồng và tinh quặng đồng tăng 12,27%; quặng Felspar tăng 293,5%; dứa đóng hộp tăng 11,79%; phốt pho vàng tăng 23,32%; sản phẩm axit sunfuric tăng 10,51%; sản phẩm axit photphoric tăng 22,12%; sản phẩm photphat (DCP) tăng 1,59%; phân bón NPK tăng 9,72%; dược phẩm khác (cao atiso) tăng 4,38%; gạch xây dựng tăng 3,66%, đồng ka tốt tăng 49,58%; vàng chưa gia công tăng 53,89%; cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép tăng 51,8%; thùng, bể chứa và các vật bằng sắt thép có dung tích >300 lít tăng 7,04%; điện sản xuất tăng 20,06%; điện thương phẩm tăng 8,43%; nước uống được tăng 2,89%. Tuy nhiên, trong kỳ cũng có một số sản phẩm công nghiệp giảm so với năm 2021 như: Quặng Apatit giảm 25,78%; tinh bột sắn giảm 55,96%; bia hơi giảm 59,34%; sản phẩm nước tinh khiết giảm 8,03%, gỗ cưa hoặc xẻ giảm 93,47%, sản phẩm gỗ lạng hoặc bóc giảm 100%; sản phẩm ván ép từ gỗ giảm 1,64% -354 m3; sản phẩm gỗ cốp pha giảm 82,85%; dịch vụ phụ thuộc liên quan đến in giảm 8,21%; phân lân P2O5% giảm 23,06%; phân bón DAP giảm 6,1%; phân lân nung chảy giảm 10,28%; bê tông tươi giảm 46,57%, xi măng giảm 100%; phôi thép giảm 66,57%; sản phẩm bi, bánh răng, hộp số, các bộ phận điều khiển và chuyển động giảm 38,99%. Nhìn chung các ngành sản phẩm có chỉ số giảm so với cùng kỳ do trong kỳ một số doanh nghiệp vẫn cho bảo dưỡng máy móc thiết bị, ngừng hoạt động chờ chuyển nhượng hoặc tái cơ cấu quy mô doanh nghiêp,...ngoài ra còn do một số yếu tố khách quan (thiếu nguyên liệu đầu vào, ảnh hưởng đến môi trường,...); một số doanh nghiệp tập trung tiêu thụ hàng tồn kho của kỳ trước hoặc chịu ảnh hưởng bởi sức mua và biến động thất thường của thị trường trong và ngoài tỉnh.

Chỉ số tiêu thụ sản phẩm: Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tháng 12/2022 so với tháng trước bằng 76,4%; so với cùng kỳ năm 2022 bằng 84,58%. Tính chung 12 tháng năm 2022, chỉ số tiêu thụ ngành chế biến, chế tạo bằng 85,29% so với năm trước. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so với năm 2021 như: Chế biến thực phẩm giảm 19,24%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa giảm 92,35%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 61,44%; sản xuất sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 14,36%; sản xuất kim loại giảm 16,63%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 11,83%. Nguyên nhân giảm chủ yếu do trong kỳ một số doanh nghiệp tập trung sửa chữa, bảo dưỡng máy móc, thiết bị; giải quyết xả thải môi trường,... Trong kỳ chỉ có 02 ngành có chỉ số tiêu thụ tăng là, sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 76,38%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 13,68%.

Chỉ số tồn kho: Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/12/2022 dự ước tăng 187,59% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó, ngành có chỉ số tồn kho tăng cao gồm: Sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 3,2 lần%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 118,73%; sản xuất kim loại tăng 9,48%. Các ngành có chỉ số tồn kho giảm: Ngành sản xuất chế biến thực phẩm giảm 40,82%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 76,26%, sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 26,41%.

Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân 12 tháng năm 2022 là 83,28%; trong đó, các ngành có tỷ lệ tồn kho cao: Ngành sản xuất chế biến thực phẩm 256,51%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ 160,35%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu 602,36%,...

Chỉ số sử dụng lao động: Chỉ số sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp tháng 12 năm 2022 giảm 0,43% so với tháng trước; so với cùng kỳ năm trước giảm 2,91%. Trong đó, doanh nghiệp ngoài Nhà nước giảm 9,83%; doanh nghiệp Nhà nước tăng 1,38%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 5,63%.

Tính chung 12 tháng năm 2022, chỉ số sử dụng lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp tăng 3,14% so với cùng kỳ năm trước. Chia theo loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp Nhà nước giảm 1,47%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 7,25%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 8,45%. Chia theo ngành công nghiệp: Công nghiệp khai khoáng tăng 8,52%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,04%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện tăng 1,45%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,15%.

8. Thương mại, dịch vụ

Năm 2022, hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch trên địa bàn tỉnh đã và đang phục hồi mạnh mẽ sau khi dịch Covid-19 được khống chế, các hoạt động thương mại, dịch vụ chuyển sang trạng thái bình thường; cùng với đó, tỉnh đã tổ chức nhiều sự kiện để quảng bá kích cầu du lịch, các lễ hội được tổ chức tại các địa phương thu hút lượng lớn khách du lịch đến với Lào Cai; đa số các lĩnh vực đều tăng trưởng khá, đặc biệt là hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ lưu trú, ăn uống, hoạt động kinh doanh vận tải, hoạt động cáp treo Fansipan hoạt động trở lại thu hút lượng khách lớn; Cửa khẩu quốc tế đường bộ số II Kim Thành đã thông quan trở lại

8.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 12/2022 ước tính đạt 1.961,73 tỷ đồng, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 1.365,07 tỷ đồng, tăng 12,94%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 330,58 tỷ đồng, tăng 20,90%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 10,31 tỷ đồng, tăng 3,6 lần so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ khác đạt 255,76 tỷ đồng tăng 15,73% so với cùng kỳ 2021.

Quý IV năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 5.755,11 tỷ đồng, tăng 16,76% so với cùng kỳ năm 2021. Xét theo ngành hoạt động: Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 4.013,64 tỷ đồng, tăng 15,57%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước tính đạt 965,46 tỷ đồng, tăng 22,84%; doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 30,58 tỷ đồng, tăng gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 745,41 tỷ đồng, tăng 12,67% so với cùng kỳ năm 2021.

Tính chung 12 tháng năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 21.468,48 tỷ đồng, tăng 23,42% so với năm trước. Xét theo ngành hoạt động: 

- Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước tính đạt 15.148,66 tỷ đồng, chiếm 70,56% tổng mức và tăng 21,98% so với năm trước. Trong đó, lương thực, thực phẩm tăng 22,8%; may mặc tăng 6,53%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 12,96%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 10,86%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 21,64%; ô tô các loại tăng 21,97%; phương tiện đi lại (trừ ô tô kể cả phụ tùng) tăng 17,33%; xăng dầu các loại tăng 54,03%; nhiên liệu khác tăng (trừ xăng dầu) 34,16%; đá quý, kim loại quý tăng 8,16%; hàng hóa khác tăng 22,37%. Năm 2022, hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch trên địa bàn tỉnh đã và đang phục hồi mạnh mẽ, các cơ sở sản xuất kinh và các nhà hàng hoạt động tương đối ổn định sau khi dịch covid-19 được khống chế, các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh có những chính sách kịp thời, tích cực thực hiện nhiều biện pháp kích cầu, tăng cường quảng bá, nâng cao chất lượng dịch vụ. Trong năm, tổ chức nhiều Lễ hội sôi động có quy mô lớn như: Lễ hội đường phố Sa Pa, Lễ hội hoa hồng Fansipan 2022 ga cáp treo, Lễ hội tình yêu và hoa hồng tại thị trấn Bắc Hà, Lễ hội “Festival Cao nguyên trắng Bắc Hà” mùa hè với chủ đề “Giải đua Vó ngựa Cao nguyên trắng lần thứ 15”, Tuần văn hóa Du lịch Bảo Yên, Lễ hội Tâm linh được tổ chức tại xã Bảo Hà huyện Bảo Yên, Lễ hội mùa Thu Sa Pa với chủ đề “Sa Pa - Mùa vàng”, Lễ hội mùa Thu huyện Bát Xát với chủ đề “Ý Tý - Sức hút đại ngàn”, Chương trình nghệ thuật “Tinh hoa Tây Bắc” với chủ đề “Kết nối khát vọng xanh” năm 2022,... nên thu hút nhiều du khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan, du lịch;

- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống năm 2022 ước tính đạt 3.596,07 tỷ đồng, chiếm 16,75% tổng mức và tăng 39,08% so với năm trước; 

- Doanh thu du lịch lữ hành ước tính đạt 67,11 tỷ đồng, chiếm 0,31% tổng mức và tăng 130,8%;

- Doanh thu dịch vụ khác ước tính đạt 2.656,62 tỷ đồng, chiếm 12,37% tổng mức và tăng 12,55% so với năm 2021.

Doanh thu các ngành dịch vụ tăng mạnh so với năm 2021 là do tỉnh triển khai thực hiện tốt Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ về quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”; cùng với đó là phương án mở cửa lại hoạt động du lịch trong điều kiện bình thường mới của tỉnh, các đơn vị kinh doanh trên địa bàn tỉnh đã xây dựng kế hoạch chuỗi sự kiện, tích cực thực hiện nhiều biện pháp kích cầu, tăng cường quảng bá, nâng cao chất lượng dịch vụ, vì vậy nhiều Lễ hội đã được tổ chức sôi động với quy mô lớn thu hút nhiều lượt khách đến với Lào Cai.

8.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Năm 2022, hoạt động xuất nhập khẩu qua địa bàn tỉnh Lào Cai gặp nhiều khó khăn, hạn chế do phía Trung Quốc triển khai các biện pháp phòng chống dịch bệnh Covid-19, hoạt động thông quan nhiều thời điểm bị gián đoạn, có khi ngừng thông quan trong thời gian dài (từ giữa tháng 2 đến đầu tháng 4). Hiện nay, mặc dù phía huyện Hà Khẩu đã bắt đầu nới lỏng giãn cách theo chính sách "Zero Covid-19 linh hoạt", tuy nhiên việc đảm bảo an toàn phòng dịch trong hoạt động thông quan vẫn được thực hiện chặt chẽ nên hoạt động xuất nhập khẩu qua cửa khẩu quốc tế đường bộ số II Kim Thành vẫn còn hạn chế, hàng hóa thông quan chủ yếu là xuất khẩu gỗ ván bóc, sắn khô, than củi, đỗ lạc, đậu xanh, các mặt hàng trái cây như thanh long, chuối, chôm chôm; hoạt động xuất, nhập khẩu qua cửa khẩu đường sắt chủ yếu là xuất khẩu phốt pho, nhập khẩu than cốc, phân bón với số lượng không lớn...

Tổng giá trị xuất nhập khẩu, mua bán, trao đổi hàng hoá qua các cửa khẩu trong tháng 12/2022 ước đạt 223,98 triệu USD, tăng 28,45% so với tháng trước, giảm 6,83% so với cùng kỳ năm 2021. Luỹ kế hết năm 2022 ước đạt 2.228,60 triệu USD, giảm 36,38% so với năm 2021, đạt  50,65% kế hoạch năm, trong đó:

- Giá trị xuất khẩu tháng 12/2022 ước đạt 70,9 triệu USD, tăng 27,66% so với tháng trước, giảm 26,85% so với cùng kỳ năm 2021. Luỹ kế năm 2022 ước đạt  870,21 triệu USD, giảm 29,98% so với năm 2021, đạt 52,74% kế hoạch năm.

- Giá trị nhập khẩu ước đạt 67,41 triệu USD, tăng 19,66% so với tháng trước, tăng 30,8% so với năm 2021. Luỹ kế năm 2022 ước đạt 642,69 triệu USD, giảm 7,9% so với năm 2021, đạt 83,47% kế hoạch năm.

- Các loại hình (TNTX, KNQ, chuyển CK, Quá cảnh, Doanh nghiệp trong tỉnh thực hiện XNK tại các cửa khẩu khác) ước đạt 85,67 triệu USD, tăng 37,8% so với tháng trước, giảm 6,83% so với năm 2021. Luỹ kế năm 2022 ước đạt 715,03 triệu USD, giảm 54,24% so với năm 2021, đạt 36,11% kế hoạch năm.

8.3. Vận tải hành khách và hàng hóa

Năm 2022, tỉnh Lào Cai thực hiện với nhiều giải pháp quyết liệt, đồng bộ hiệu quả trong phòng chống dịch cũng như phát triển kinh tế; các đơn vị kinh doanh vận tải đã đi vào hoạt động tương đối ổn định; đặc biệt là hoạt động cáp treo Fansipan hoạt động có nhiều khởi sắc nên hoạt động kinh doanh vận tải đạt mức tăng khá so với năm trước.

Vận tải hành khách (HK): Tháng Mười Hai ước đạt 920 nghìn HK, tăng 100,17% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển đạt 40.054 nghìn HK.Km, tăng 86,13%. Ước thực hiện Quý IV năm 2022, vận tải HK đạt 2.159 nghìn HK, tăng 54,77% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển đạt 94.272 nghìn HK.Km, tăng 46,43%.

Tính chung cả năm 2022, vận tải HK đạt 8.016 nghìn HK, tăng 48,23% so với năm trước; luân chuyển đạt 350.879 nghìn HK.Km, tăng 33,63%. Trong đó, vận tải HK đường bộ đạt 7.596 nghìn HK, tăng 52,27%, luân chuyển đạt 350.795 nghìn HK.Km, tăng 33,64%; đường thủy đạt 420 nghìn HK, tăng 0,09%; luân chuyển đạt 84 nghìn HK.Km, giảm 16% so với năm 2021.

Vận tải hàng hóa: Tháng Mười Hai ước đạt 1.205 nghìn tấn, tăng 25,45% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển đạt 49.903 nghìn tấn.km, tăng 17,80%. Quý IV/2022 vận tải hàng hóa đạt 3.459 nghìn tấn, tăng 9,14%; luân chuyển đạt 142.840 nghìn tấn.km, tăng 22,02% so với cùng kỳ năm 2021.

Tính chung cả năm 2022, vận tải hàng hóa đạt 12.103 nghìn tấn, tăng 18,96%; luân chuyển đạt 535.101 nghìn tấn.km, tăng 28,98% so với năm 2021.

Doanh thu vận tải: Tổng doanh thu vận tải tháng Mười Hai ước đạt 438,31 tỷ đồng, tăng 48,96% so với cùng kỳ 2021; trong đó, doanh thu vận tải hành khách đạt 146,56 tỷ đồng, doanh thu vân tải hàng hóa đạt 204,49 tỷ đồng, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 87,25 tỷ đồng. Quý IV/2022, tổng doanh thu vận tải đạt 1.159,47 tỷ đồng, tăng 34,07% so với cùng kỳ 2021; trong đó, doanh thu vận tải hành khách đạt 317,22 tỷ đồng, doanh thu vân tải hàng hóa đạt 586,11 tỷ đồng, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 256,14 tỷ đồng. Tính cả năm 2022, tổng doanh thu vận tải đạt 4.189,40 tỷ đồng, tăng 39% so với năm 2021; trong đó, doanh thu vận tải hành khách đạt 1.095,22 tỷ đồng, doanh thu vận tải hàng hóa đạt 2.104,13 tỷ đồng, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 990,04 tỷ đồng.

8.4. Bưu chính, viễn thông

- Hạ tầng bưu chính: Toàn tỉnh hiện có 12 doanh nghiệp tham gia cung ứng dịch vụ bưu chính chuyển phát, quản lý mạng điểm phục vụ gồm 229 điểm; bán kính phục vụ bình quân 3,16 km/điểm phục vụ; số dân được phục vụ bình quân 3.666 người/điểm; 169 điểm phục vụ có kết nối băng rộng; 155 điểm phục vụ cung cấp dịch vụ thương mại điện tử và logistic; 127/127 xã có điểm phục vụ bưu chính có người phục vụ; 112 tuyến đường thư, 136/152 xã, phường, thị trấn có báo đến trong ngày. Trong thời gian qua, hoạt động của các doanh nghiệp bưu chính trên địa bàn tỉnh được duy trì và phát triển, mở rộng đảm bảo cung cấp các dịch vụ bưu chính và đáp ứng kịp thời nhu cầu chuyển phát thư, báo, công văn, tài liệu, bưu phẩm, bưu kiện cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân trên địa bàn tỉnh, đảm bảo an toàn mạng bưu chính và an ninh thông tin trong lĩnh vực bưu chính; đồng thời đáp ứng việc thí điểm chuyển bộ phận một cửa sáng Bưu điện và triển khai dịch vụ KT1 - dịch vụ bưu chính phục vụ cơ quan Đảng, Nhà nước.

- Hạ tầng viễn thông: Mạng lưới viễn thông toàn tỉnh tính đến thời điểm hiện tại có 3.043 trạm thu phát sóng thông tin di động BTS, trong đó có 05 trạm 5G; trên 5.938km cáp, gồm: 5.500km treo, 438km cáp ngầm đảm bảo phủ sóng di động 2G đến 100% trung tâm xã, 100% trung tâm thôn, bản; hạ tầng mạng truyền dẫn cáp quang kết nối và cung cấp dịch vụ đến 79% số thôn; 98,7% số thôn được phủ sóng 2G; 96,7% số thôn được cung cấp dịch vụ truy nhập Internet băng rộng di động (3G, 4G) tại các khu vực trung tâm thôn, khu vực tập trung dân cư.

10. Một số vấn đề xã hội

10.1. Lao động, việc làm

- Lao động: Quý IV năm 2022, thị trường lao động có nhiều khởi sắc với những chuyển biến tích cực. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm giảm; số lượng lao động có việc làm tăng so với quý trước và so với cùng kỳ.

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên quý IV năm 2022 ước đạt 393,39 nghìn người, tăng 3,45 nghìn người so với quý trước và tăng 16,67 nghìn người so với cùng quý năm trước. Lao động có việc làm quý IV ước tính khoảng 387,54 nghìn người, tăng 2,59 nghìn người so với quý trước và tăng 12,50 nghìn người so với cùng quý năm trước. Ước năm 2022, lao động từ 15 tuổi trở lên khoảng 391,85 nghìn người, tăng 2,85% so với năm trước; lao động có việc làm ước tính 386,64 nghìn người, tăng 2,84% so với năm trước; trong đó, lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 41,97%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 14,73%; dịch vụ chiếm 43,30%.

Công tác dạy nghề và giải quyết việc làm mới được triển khai đồng bộ ngay từ đầu năm. Kết quả: Tháng 12/2022, các cơ sở GDNN đã tuyển sinh và đào tạo được 792 người; lũy kế năm 2022 tổ chức đào tạo mới, bồi dưỡng lại cho 12.600 người, đạt 114,5% kế hoạch năm[1].

- Giải quyết việc làm: Tháng 12/2022, giải quyết việc làm cho 336 lao động, trong đó có 95 lao động được vay vốn Quỹ quốc gia việc làm. Lũy kế năm 2022 giải quyết việc làm cho 15,22 nghìn người đạt 117,1% kế hoạch. Duy trì tỷ lệ thất nghiệp dưới 1,2%.

0.2. Giáo dục

Năm 2022, ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lào Cai đã làm tốt công tác quản lý nhà nước về công tác giáo dục và đào tạo. Trong đó, công tác tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2022 được thực hiện nghiêm túc; tổ chức tốt công tác tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên tham gia công tác thi; tổ chức các lớp tập huấn nhằm nâng cao chất lượng dạy học; chỉ đạo các đơn vị trường học tổ chức các hoạt động hè thiết thực bổ ích; tiếp tục thực hiện tốt công tác phòng chống dịch Covid-19; tuyên truyền, cảnh báo đảm bảo an toàn trong sinh hoạt, đặc biệt là phòng tránh đuối nước cho học sinh trong dịp nghỉ hè; làm tốt công tác tuyển sinh các lớp đầu cấp; tổ chức thành công hội nghị tổng kết năm học 2020-2022, triển khai nhiệm vụ năm học 2022-2023 bằng hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến đến 100% cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh; làm tốt công tác chuẩn bị cho năm học mới, chỉ đạo tổ chức Khai giảng năm học 2022-2023 và Ngày hội toàn dân đưa trẻ đến trường; tổ chức hiệu quả các hội nghị, hội thảo, tập huấn nhằm nâng cao chất lượng giáo dục,... Tỷ lệ thí sinh dự thi đỗ tốt nghiệp đạt 99,57%; công tác tuyển sinh mới đạt 100% kế hoạch; tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi đạt 99%; huy động trẻ 6-10 tuổi đạt 99%; trẻ 11-14 tuổi đạt 99%; huy động học sinh hoàn thành chương trình tiểu học vào học lớp 6 đạt 99,7%. Cơ sở vật chất trường, lớp học, thiết bị dạy học cơ bản đảm bảo cho dạy và học; tích cực triển khai xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia gắn với xây dựng nông thôn mới, tỷ lệ trường đạt chuẩn là 64,78%.

10.3. Văn hóa, thể thao

Lĩnh vực văn hóa: Năm 2022, dịch bệnh covid-19 cơ bản được kiểm soát, nhờ đó mà các hoạt động văn hóa, thể thao, gia đình dần sôi động trở lại, đồng thời vẫn đảm bảo công tác phòng chống dịch theo yêu cầu của Chính phủ. Tập trung tuyên truyền, tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ chào mừng các sự kiện lớn của đất nước, của tỉnh như: Đại hội Thể dục Thể thao Đông Nam Á lần thứ 31 – SEAGAMES 31; 92 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; 47 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; 68 năm Ngày chiến thắng Điện Biên Phủ; 132 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; Đại hội Thể dục Thể thao tỉnh Lào Cai lần thứ VII; 115 năm Ngày thành lập tỉnh Lào Cai, Hội thi Thể thao các dân tộc thiểu số toàn quốc lần thứ XII tại Lào Cai,... Hoàn thành tham gia Liên hoan trình diễn trang phục các dân tộc thiểu số Việt Nam khu vực phía Bắc lần thứ I (tại Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) đạt 2 giải A, 01 giải B; Ngày hội Văn hoá, Thể thao và Du lịch các dân tộc vùng Tây Bắc (tại tỉnh Phú Thọ) đạt 05 giải A, 01 giải B, 01 giải C, 01 giải Nhất toàn đoàn và nhiều Bằng khen của tỉnh Phú Thọ.

Hoạt động thể thao: Công tác tổ chức các hoạt động thể dục thể thao trong tỉnh đã được khôi phục trở lại, sôi nổi và rộng khắp. Trong tháng, tham gia thi đấu các môn: cử tạ, pencak silat và kéo co tại Đại hội thể dục thể thao toàn quốc; kết quả đạt 02 HCV, 01 HCB và 03 HCĐ. Công tác xây dựng và phát triển phong trào thể dục thể thao ở cơ sở tiếp tục được duy trì, tạo nguồn vận động viên cho tuyến tỉnh cũng như bảo tồn, phát triển các môn thể thao dân tộc.

10.4. Y tế - chăm sóc sức khỏe nhân dân

a) Công tác phòng chống dịch bệnh

- Phòng chống dịch Covid-19: Số ca nhiễm COVID-19 tính đến 15/12/2022 là 186.410 ca, số ca khỏi là 186.353; hiện đang điều trị: 17 ca (bệnh viện: 03, tại nhà: 14). Tiếp tục triển khai công tác tiêm vắc xin phòng COVID-19 cho toàn thể cán bộ và Nhân dân trên địa bàn tỉnh. Tổng liều vắc xin đã tiếp nhận là 2.368.664 liều, tổng liều vắc xin đã tiêm là 2.330.811 mũi, trong đó: Đối tượng từ 18 tuổi trở lên được tiêm 2 mũi: 480.746 người, đạt 99,35%; mũi 3: 417.813 người, chiếm 97,04% người đủ điều kiện; mũi 4: 227.817, chiếm 98,31% người đủ điều kiện tiêm. Đối tượng từ 12-17 tuổi được tiêm 2 mũi: 85.325 người, chiếm 98,12% tổng số trẻ. Tỷ lệ tiêm mũi 2/số trẻ đủ điều kiện tiêm là 98,71%. Đối tượng từ 5-11 tuổi được tiêm mũi 1: 116.933 trẻ, chiếm 97,42% tổng số trẻ có mặt; tiêm mũi 2: 103.792 trẻ, chiếm 86,47% số trẻ có mặt.

- Chương trình mục tiêu quốc gia về y tế - dân số: Tiếp tục thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế - dân số; các bệnh truyền nhiễm lưu hành địa phương, một số bệnh như tiêu chảy, quai bị,... xảy ra rải rác tại các huyện, thị xã, thành phố được giám sát phát hiện, điều trị kịp thời.

- Đảm bản an toàn thực phẩm: Trong tháng, kiểm tra 320 cơ sở, 310 cơ sở đạt yêu cầu, chiếm 96,9%. Test nhanh 588 mẫu, 100% mẫu đạt. Cấp 30 giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP, tiếp nhận 38 hồ sơ tự công bố. Thực hiện giám sát đảm bảo ATTP tại các sự kiện diễn ra trên địa bàn; Trong tháng không xảy ra ngộ độc thực phẩm cấp tính.

b) Công tác khám, chữa bệnh

Công tác khám chữa bệnh được duy trì thường xuyên, đảm bảo chế độ thường trực cấp cứu, sẵn sàng tiếp nhận, điều trị bệnh nhân; thực hiện nghiêm các quy định về tinh thần, thái độ, trách nhiệm phục vụ Nhân dân trong các cơ sở khám, chữa bệnh; nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho Nhân dân. Công suất sử dụng giường bệnh tháng 12 đạt 100,43% (tại bệnh viện: 101,87%, tại PKĐKKV: 86,07%); công suất sử dụng giường bệnh năm 2022 đạt 91,42 % (tại bệnh viện: 92,85%, tại PKĐKKV: 77,16%).

10.5. Tai nạn giao thông

Trong năm, lực lượng Cảnh sát giao thông, Thanh tra giao thông, Cảnh sát cơ động phối hợp với các ngành, các địa phương huy động lực lượng, phương tiện, triển khai đồng bộ các biện pháp công tác, bố trí lực lượng, tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm an toàn giao thông. Theo báo cáo của Ban An toàn giao thông tỉnh, tháng 12/2022 xảy ra 6 vụ tai nạn giao thông và va chạm giao thông, làm 3 người chết và 5 người bị thương. Trong quý IV/2022 xảy ra 11 vụ tai nạn giao thông và va chạm giao thông, làm 7 người chết và 7 người bị thương. Lũy kế năm 2022, xảy ra 66 vụ tai nạn giao thông và va chạm giao thông; trong đó, đường bộ là 65 vụ, đường thủy 01 vụ; làm 33 người chết và 63 người bị thương. So với cùng kỳ số vụ giảm 10%; số người chết và số người bị thương đều giảm 6%;

Lực lượng Công an, Thanh tra giao thông thường xuyên tăng cường tuần tra, kiểm soát, ngăn chặn tình trạng đua xe trái phép, không đội mũ bảo hiểm, xe ô tô chạy quá tốc độ, quá tải, xe khách chở quá số người quy định, kiểm tra nồng độ cồn. Trong tháng, đã lập biên bản xử lý 1.357 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, tạm giữ 699 phương tiện các loại, tước 502 giấy phép lái xe, xử phạt nộp Kho bạc Nhà nước 5,75 tỷ đồng.

10.6. Thiệt hại do thiên tai

Trong tháng, trên địa bàn tỉnh không có thiệt hại do thiên tai gây ra. Lũy kế năm 2022, trên địa bàn tỉnh xảy ra 16 đợt thiên tai, làm 05 người chết, 03 người bị thương; 1.300 ngôi nhà bị hư hỏng, 660 nhà bị ngập nước; diện tích lúa, ngô và hoa màu thiệt hại là 681,31 ha; diện tích thủy sản 29,76 ha, làm chết 5,15 tấn cá hồi, cá tầm; số gia súc, gia cầm bị chết là 1.981 con (trong đó, trâu 553 con, bò 75 con, ngựa 9 con); đổ gãy 01 cột điện cao thế, 04 trụ sở làm việc khối cơ quan nhà nước bị tốc mái và sụt lún tường rào, chân móng hư hỏng gây nguy cơ sập đổ; 09 trường học bị tốc mái, đổ tường rào; 55 công trình Thủy lợi bị hư hỏng. Mưa lớn gây sạt lở, ngập úng nhiều tuyến đường giao thông và nhiều nhà, ô tô, xe máy bị ngập nước, nhiều thiết bị điện tử bị sét đánh bị hư hỏng,... Giá trị thiệt hại ước khoảng trên 120 tỷ đồng.

10.7. Tình hình cháy nổ và bảo vệ môi trường

Cháy, nổ: Trong tháng, trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ cháy và 02 sự cố, lũy kế năm 2022 xảy ra 9 vụ cháy và 8 sự cố, so với năm trước giảm 45%. Thiệt hại về người, 01 người chết, 04 người bị thương; thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 3,57 tỷ đồng. Theo kế hoạch, tỉnh Lào Cai vẫn đang thực hiện triển khai cuộc tổng rà soát, kiểm tra an toàn về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trên địa bàn tỉnh Lào Cai năm 2022.

Môi trường: Tháng 12, trên địa bàn tỉnh xảy ra 03 vụ vi phạm môi trường, so với tháng trước giảm 11 vụ, so với cùng kỳ năm trước giảm 02 vụ, số vụ đã được xử lý 03 vụ với số tiền xử phạt 111 triệu đồng; Lũy kế 11 tháng đầu năm xảy ra 90 vụ, số tiền xử phạt là trên 1,3 tỷ đồng. Nội dung vi phạm chủ yếu là vi phạm hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm, vi phạm môi trường trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, vi phạm trong lĩnh vực xây dựng, môi trường và đô thị,...

Tóm lại: Năm 2022, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai có nhiều khởi sắc, dần bước vào quỹ đạo phục hồi, thích ứng linh hoạt với dịch bệnh; hầu hết các ngành, lĩnh vực đã quay trở lại đà tăng trưởng; hoạt động sản xuất, kinh doanh, đời sống người dân, người lao động ổn định và phát triển trở lại trạng thái bình thường mới. Tình hình phát triển kinh - tế xã hội đạt nhiều kết quả tích cực trên các lĩnh vực như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt khá; sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh ổn định; sản xuất công nghiệp khởi sắc duy trì ổn định và phát triển; hoạt động thương mại, dịch vụ, du lịch có xu hướng phục hồi tích cực; thu ngân sách nhà nước trên địa bàn được triển khai quyết liệt; các lĩnh vực văn hoá, xã hội tiếp tục được quan tâm; các chế độ chính sách, an sinh xã hội được thực hiện đầy đủ, kịp thời; hoạt động đối ngoại được đẩy mạnh,...



[1] trong đó trình độ cao đẳng, trung cấp: 3.620 người; sơ cấp và dưới 3 tháng: 8.980 người. Lao động nông thôn chiếm 79,05%. Lao động là nữ chiếm 42,86; Lao động là người dân tộc thiểu số 65,8%; Lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo chiếm 19,7%; Thanh niên tham gia học nghề chiếm 72,8%.

Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập